Vaccine của Vingroup đi vào thử nghiệm giai đoạn 3b, chuẩn bị xin cấp phép khẩn cấp vào tháng 12
Business Wire đưa tin, vaccine ARCT- 154 do Vingroup nhận sản xuất chuyển giao từ công nghệ Mỹ được phép thử nghiệm lâm sàng. Theo đó, vaccine này đã bắt đầu thử nghiệm giai đoạn 3b và dự kiến sẽ xin cấp phép khẩn cấp vào tháng 12 tới đây.
Vaccine ARCT-154 do Vingroup mua công nghệ của Mỹ để thử nghiệm, sản xuất tại Việt Nam, đến nay đã đi vào thử nghiệm giai đoạn 3b với hơn 20.000 tình nguyện viên.
Theo kế hoạch, một nửa số tình nguyện viên tham gia thử nghiệm giai đoạn 3b sẽ được tiêm 2 mũi vaccine, mỗi liều cách nhau 28 ngày. Nửa còn lại sẽ dùng giả dược. Giai đoạn 2 và giai đoạn 3a của thử nghiệm hiện vẫn đang diễn ra với lần lượt trên hơn 300 người và 600 người.
Chủ tịch kiêm Giám đốc điều hành của Arcturus, ông Joseph Payne chia sẻ, Arcturus rất hài lòng với tiến độ thử nghiệm hiện tại, việc bắt đầu giai đoạn 3b giúp vaccine tiến gần hơn đến mục tiêu nộp đơn xin cấp phép khẩn cấp, theo kế hoạch dự kiến vào tháng 12 tới đây.
Trước đó, hồi đầu tháng 8, Vingroup chính thức ký kết với Công ty Cổ phần Công nghệ sinh học Arcturus Therapeutics (Mỹ) nhận chuyển giao độc quyền công nghệ sản xuất vaccine phòng COVID-19.
Theo thoả thuận, Arcturus cấp giấy phép độc quyền và CTCP Công nghệ Sinh học VinBioCare (công ty thành viên của Vingroup) sẽ tiến hành sản xuất vaccine phòng COVID-19 có tên VBC-COV19-154 (dựa trên sáng chế vaccine ARCT-154 của Arcturus).
Vaccine này có khả năng chống lại các biến chủng mới nguy hiểm như Delta (Ấn Độ), Alpha (Anh), Beta (Nam Phi), Gamma (Brazil). Với năng lực sản xuất lên tới 200 triệu liều/năm, dự kiến Vingroup sẽ xuất xưởng những lô vaccine đầu tiên vào đầu năm 2022.
Vừa qua, khi chia sẻ với báo chí, tiến sỹ Nguyễn Ngô Quang, Phó Cục trưởng Cục Khoa học công nghệ và Đào tạo, Bộ Y tế thông tin, vaccine ARCT- 154 theo công nghệ mRNA được phát triển trên cơ sở vaccine ARCT- 021 (đã có các kết quả nghiên cứu giai đoạn 1, 2 và 3 ở Mỹ và Singapore). Do vậy, Hội đồng đạo đức đã cho phép để đảm bảo tiến độ và thời gian nhằm phục vụ cho công cuộc phòng, chống dịch ở Việt Nam, nghiên cứu này được triển khai gối đầu giai đoạn 2 và 3a.