Ngôi chùa nghìn tuổi ẩn mình bên hồ Gươm mà không phải người Hà Nội nào cũng biết, nơi lưu giữ những câu chuyện huyền bí chốn kinh kỳ xưa
Tương truyền rằng khi đào đất đắp thành vào đời vua Lê Thánh Tông ở làng Báo Thiên Tự Tháp (ngày nay là khu vực Nhà thờ Lớn), người ta phát hiện được một pho tượng bằng đá mang hình dáng một người phụ nữ...
Nằm khép mình trong con phố cổ tại số 3 phố Nhà Thờ, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội, chùa Bà Đá tuy nhỏ nhưng lại chứa đựng nhiều dấu ấn của Thăng Long xưa. Nằm ngay gần hồ Hoàn Kiếm đông đúc người qua lại, chỉ vài trăm mét, đi qua cánh cổng nhỏ án ngữ hai bên hồi nhà dẫn vào một không gian yên ả, thanh tịnh, chùa Bà Đá khiêm nhường nằm giữa phố cổ nhộn nhịp.
Rời xa náo nhiệt, mùi hương trầm khẽ bay trong gió, du khách đến thăm nơi này có lẽ không nghĩ rằng, chùa Bà Đá đã tồn tại gần nghìn năm. Cùng với chùa Bà Nành, Bà Đanh và Bà Ngô trở thành 4 ngôi chùa Bà chứa đựng nhiều ý nghĩa của đất kinh kỳ.
Ngay từ cái tên Bà Đá đã gợi đến nhiều câu chuyện kỳ bí về nguồn gốc của ngôi chùa.
Theo những văn tự, bia đá được truyền lại, thuở khởi nguyên, ngôi chùa được xây dựng từ thời Lý, vào năm Bính Thân (1056) với tên gọi chùa Sùng Khánh. Thế rồi, thời gian trôi đi, trải qua biết bao bãi bể nương dâu, đến thời vua Lê Thánh Tông, chùa Bà Đá chỉ còn lại là một am nhỏ.
Khi người dân đào đất xây tường đã phát hiện một tượng bằng đá giống hình người phụ nữ, thấy sự lạ, người dân cho rằng đó là bậc Tiên Thánh giáng, bèn tu bổ bàn thờ, xây dựng chùa ngói để thờ phụng. Nhưng rồi, pho tượng đá này mất tích.
Phải đến 3 thế kỷ sau, vào cuối thời Lê Trịnh (1767 - 1782), khi ngôi chùa được tu bổ lại, tường cứ xây lên lại đổ, người ta đào sâu xuống nữa thì tìm thấy pho tượng đá. Chính vì vậy, người ta cho rằng tượng đá này linh thiêng. Sau khi ngôi chùa hoàn thành, nhiều người tìm đến chiêm bái. Từ ấy, dân gian cũng gọi đây là chùa Bà Đá.
Năm 1786, thành Thăng Long bị tàn phá, kéo theo chùa Bà Đá cũng thương tích đầy mình. Thậm chí, ngôi chùa còn bị bỏ hoang, dần dà bị lấn chiếm khiến diện tích ngày càng khiêm tốn. Sự thiêng vẫn còn hiện hữu khi lật đống tro tàn, người ta lại tìm thấy pho tượng lần nữa.
Trong "Thăng Long cổ tích khảo" cũng có nhắc đến rằng: "... Chùa xây vào triều Lý, đến binh biến thời Tây Sơn chùa bị hủy hoại. Bấy giờ quan sức cho diệt trừ cỏ dại, người trong thôn thu dọn đất đá lại thấy pho tượng đá, dân làng bèn dựng tạm một gian chùa để thờ phụng. Năm Canh Tuất triều Tự Đức thứ 3 (1850) một vị tăng tự là Giác Vượng đến trụ trì chùa này, xây dựng và mở mang thêm cảnh chùa".
Cũng vì sự thiêng này mà chùa Bà Đá còn có tên chữ là Linh Quang Tự, nghĩa là ngôi chùa ánh sáng ling thiêng.
Trong khoảng thế kỷ 17-18, ngôi chùa cổ này từng là Tổ đình của Lâm Tế tông - 1 trong 2 thiền phái lớn của Phật Giáo ở Bắc Bộ. Từ tấm bia đá trong chùa, dãy nhà tổ ở chùa được trùng tu năm Mậu Tuất (1898).
Sau khi Hà Nội rơi vào tay người Pháp, tam quan của chùa không còn, chùa phải mở cổng nhỏ hướng ra phố Nhà Thờ. Ngay gần đó là Nhà thờ Lớn được xây dựng trên nền đổ nát của chùa Báo Thiên xưa rất nổi tiếng là 1 trong "tứ khí" của nước ta. Có lẽ, nhờ phép màu nào đó, chùa Bà Đá không bị đập bỏ hay thay đổi nhiều.
Ngày nay, để vào thăm chùa Bà Đá, du khách sẽ phải đi qua một cổng nhỏ đơn sơ nằm lùi mình bên dãy phố, hai bên cổng là hai câu đối chữ Hán và tên chùa bằng chữ quốc ngữ. Tiếp đó là một đoạn ngõ hẹp và ngắn dẫn tới sân chùa. Chỉ bằng đoạn ngõ ngắn ấy thôi đã tách biệt tiếng ồn ào ngoài kia với không gian yên ả trong khoảng sân nhỏ này. Ngôi chùa cổ được phủ bóng bồ đề xanh mát tạo cảm giác thanh tịnh và êm đềm.
Ngay trước bậc thềm rồng là lư hương lớn cùng đôi đèn đá, hai bên là hai tháp mộ cổ cao sừng sững. Hướng nhìn ngay sang bên phải là Trụ sở trường Trung cấp Phật học Hà Nội. Đi cuối dọc hành lang hai bên có thêm tháp mộ đứng đối xứng nhau.
Ngôi chùa tuy nhỏ nhưng kiến trúc sắc nét và độc đáo, từ mái hiên thấp được đỡ bằng 4 cột đá. Các họa tiết trên cột cũng được chạm khắc tinh xảo với chủ đề Xuân, Hạ, Thu, Đông và tứ quý (Lan, Cúc, Trúc, Mai).
Phía trước hồi nhà xây theo kiểu trụ lồng đèn, đỉnh trụ đắp hình chim phượng, còn phần lồng đèn đắp tứ linh, gờ nổi ở thân trụ được đắp câu đối chữ Hán. Hai gian hồi cũng được trang trí chủ đề cúc và tùng.
Nhìn chung, sau nhiều lần trùng tu, không gian thờ chính của chùa ngày càng bị thu hẹp. Và cũng do trải qua nhiều lần sửa chữa, tu bổ và tôn tạo nên chỉ còn giữ được một số cổ vật, chẳng hạn như khánh đồng (đúc năm 1842), hai chuông đồng (đúc năm 1873 và 1881). Tất cả những cổ vật này đều mang phong cách nghệ thuật thời Nguyễn.
Ngoài ra, chùa Bà Đá cũng lưu giữ được nhiều câu đối sơn son thiếp vàng, các tấm nghi môn chạm hình rồng cùng hai bức cuốn thư chạm nổi hình cúc, lão và chép thơ. Các pho tượng trong chùa được chế tác công phu và sơn son thiếp vàng cẩn thận.
Có thể thấy rằng, tuy diện tích rất khiêm nhường nhưng mỗi chi tiết kiến trúc trong chùa đều sắc nét và độc đáo, các họa tiết trang trí đều có tính biểu tượng và mang điềm lành. Chính vì mang trong mình lịch sử hình thành có tính chất huyền bí cũng như lưu giữ được dấu ấn kiến trúc tiêu biểu của thế kỷ 20, chùa Bà Đá đến nay vẫn là nơi dừng chân của nhiều khách du lịch trong và ngoài nước.
Không chỉ vậy, chùa Bà Đá nằm trong cụm các danh lam thắng cảnh và di tích lịch sử văn hóa xung quanh hồ Gươm như đền Ngọc Sơn, đền Bà Kiệu,... Chùa cũng được UBND TP. Hà Nội xếp hạng Di tích Kiến trúc nghệ thuật ngày 23/5/2005.
Chùa Bà Đá từ ngày khởi dựng, đã cùng mảnh đất kinh kỳ đi cùng năm tháng, cất giữ trong mình bao lịch sử thăng trầm thấm sâu vào lòng đất mẹ, cùng với những địa điểm tâm linh khác bảo vệ sự linh thiêng cho vùng đất Thủ đô này. Không chỉ mùng 1, ngày Rằm chùa Bà Đá mau bước chân người đến chiêm bái mà trong dịp Tết Nguyên đán, những ngày đầu xuân năm mới, nhiều người du xuân cũng tìm đến chùa để cầu bình an, may mắn.