Quy định mới về bỏ sổ tạm trú, sổ hộ khẩu giấy từ ngày 1/1/2023

HẠ VŨ,
Chia sẻ

Từ ngày 1/1/2023, bỏ quy định về việc nộp, xuất trình sổ hộ khẩu, sổ tạm trú giấy khi thực hiện thủ tục hành chính.

Ngày 21/12/2022, Chính phủ đã ban hành Nghị định 104/2022/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của các nghị định liên quan đến việc nộp, xuất trình sổ hộ khẩu, sổ tạm trú giấy khi thực hiện thủ tục hành chính, cung cấp dịch vụ công.

Nghị định gồm 15 điều, trong quy định việc sửa đổi, bổ sung các nghị định liên quan đến việc nộp, xuất trình sổ hộ khẩu, sổ tạm trú giấy khi thực hiện thủ tục hành chính, cung cấp dịch vụ công.

Quy định mới về bỏ sổ hộ khẩu, sổ tạm trú giấy từ ngày 1/1/2023 - Ảnh 1.

Sổ hộ khẩu giấy đã hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình trong cải cách hành chính. Ảnh: Vietnam+

Bỏ quy định về xuất trình sổ hộ khẩu khi thực hiện thủ tục hành chính

Đặc biệt trong số đó có nhiều quy định liên quan đến các thủ tục hành chính ở nhiều lĩnh vực bức thiết của đời sống như: việc làm, bảo hiểm y tế, giáo dục, y tế, đất đai, thuế, nhà ở... mà người dân cần lưu ý.

Theo đó, thay vì phải nộp, xuất trình sổ hộ khẩu, sổ tạm trú hoặc các giấy tờ, tài liệu về cư trú, khi thực hiện các thủ tục ở các lĩnh vực nói trên, người dân chỉ cần xuất trình một trong các loại giấy tờ như thẻ căn cước công dân, giấy tờ xác nhận thông tin về cư trú,...

Cụ thể, Điều 14 của Nghị định về khai thác, sử dụng thông tin về cư trú để giải quyết thủ tục hành chính, cung cấp dịch vụ công quy định như sau:

- Cơ quan có thẩm quyền, cán bộ, công chức, viên chức, cá nhân được giao trách nhiệm tiếp nhận, giải quyết thủ tục hành chính, cung cấp dịch vụ công phải khai thác, sử dụng thông tin về cư trú của công dân trong Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư để giải quyết thủ tục hành chính, cung cấp dịch vụ công.

Quy định mới về bỏ sổ hộ khẩu, sổ tạm trú giấy từ ngày 1/1/2023 - Ảnh 2.

Cán bộ, công chức, viên chức khi tiếp nhận giải quyết thủ tục hành chính cho người dân phải khai thác, sử dụng thông tin về cư trú của công dân trong Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư. Ảnh minh hoạ.

- Thông tin về cư trú của công dân tại thời điểm làm thủ tục hành chính được cán bộ, công chức, viên chức, cá nhân có trách nhiệm tiếp nhận, giải quyết thủ tục hành chính ghi nhận và lưu giữ trong hồ sơ thủ tục hành chính trên Hệ thống thông tin giải quyết thủ tục hành chính cấp bộ, cấp tỉnh.

- Việc khai thác, sử dụng thông tin về cư trú của công dân trong Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư được thực hiện bằng một trong các phương thức sau:

a) Tra cứu, khai thác thông tin cá nhân qua chức năng của Hệ thống thông tin giải quyết thủ tục hành chính cấp bộ, cấp tỉnh đã được kết nối với Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư hoặc qua Cổng dịch vụ công quốc gia;

b) Tra cứu thông tin cá nhân thông qua tài khoản định danh điện tử của công dân được hiển thị trong ứng dụng VNeID;

c) Sử dụng thiết bị đầu đọc đã được kết nối trực tuyến với Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư, bao gồm thiết bị đọc mã QRCode hoặc thiết bị đọc chíp trên thẻ Căn cước công dân gắn chíp;

d) Các phương thức khai thác khác theo quy định của pháp luật chuyên ngành.

Quy định mới về bỏ sổ hộ khẩu, sổ tạm trú giấy từ ngày 1/1/2023 - Ảnh 3.

Việc khai thác, sử dụng thông tin về cư trú của công dân trong Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư được thực hiện bằng nhiều phương thức. Ảnh minh hoạ.

- Trường hợp không thể khai thác được thông tin cư trú của công dân theo các phương thức nêu trên, cơ quan có thẩm quyền, cán bộ, công chức, viên chức, cá nhân được giao trách nhiệm tiếp nhận, giải quyết thủ tục hành chính, cung cấp dịch vụ công có thể yêu cầu công dân nộp bản sao hoặc xuất trình một trong các giấy tờ có giá trị chứng minh thông tin về cư trú.

- Các loại giấy tờ có giá trị chứng minh thông tin về cư trú bao gồm: Thẻ Căn cước công dân, Chứng minh nhân dân, Giấy xác nhận thông tin về cư trú, Giấy thông báo số định danh cá nhân và thông tin công dân trong Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư.

Ngoài những nội dung về cách thức giải quyết thủ tục hành chính liên quan đến SHK, Nghị định cũng bãi bỏ, thay thế một số cụm từ liên quan tới quy định về sổ hộ khẩu tại các nghị định liên quan tới một số lĩnh vực cụ thể như: hộ tịch, người có công, bảo trợ xã hội…

Quy định mới về bỏ sổ hộ khẩu, sổ tạm trú giấy từ ngày 1/1/2023 - Ảnh 4.

Ảnh minh hoạ.

Trực tuyến 3 dịch vụ công thiết yếu

Sáng 22/12/2022, tại Nhà Quốc hội, Trung tướng Nguyễn Duy Ngọc, Ủy viên Trung ương Đảng, Thứ trưởng Bộ Công an dự phiên giải trình của Ủy ban Pháp luật của Quốc hội về “Việc thực hiện yêu cầu của Luật Cư trú về hạn chế xuất trình giầy tờ, tài liệu xác nhận về cư trú và sử dụng thông tin về nơi cư trú là điều kiện để thực hiện thủ tục đất đai về hành chính, trọng tâm trong lĩnh vực hộ tịch, đất đai”.

Liên quan đến lĩnh vực hộ tịch, theo Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Khánh Ngọc, pháp luật về hộ tịch đã đi trước và sẵn sàng cho việc kết nối, chia sẻ các dữ liệu, thông tin đã có trong các Cơ sở dữ liệu của Nhà nước để tạo thuận lợi cho người dân khi đi làm các thủ tục hành chính trong lĩnh vực hộ tịch, kể cả việc không yêu cầu xuất trình các giấy tờ chứng minh nơi cư trú.

Bộ Tư pháp đã chủ động xây dựng và hướng dẫn Ủy ban nhân dân tỉnh/thành phố trực thuộc Trung ương tái cấu trúc quy trình thực hiện trực tuyến 3 dịch vụ công thiết yếu trong lĩnh vực hộ tịch: đăng ký khai sinh, kết hôn, khai tử theo hướng: 

Cho phép sử dụng dữ liệu công dân, bao gồm dữ liệu về cư trú trong Cơ sở dữ liệu về quốc gia về dân cư thay thế việc nộp/xuất trình thành phần hồ sơ là giấy tờ chứng minh nơi cư trú (không phải xuất trình giấy tờ, tài liệu xác nhận về cư trú mà cần khai thác thông tin trong Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư).

Quy định mới về bỏ sổ hộ khẩu, sổ tạm trú giấy từ ngày 1/1/2023 - Ảnh 5.

Anh Đinh Tiến Hoàng bất ngờ khi nhận được cả Giấy khai sinh, thẻ BHYT cho con gái chỉ sau 30 phút thực hiện thủ tục trực tuyến, thay vì phải đi lại nhiều lần và chờ đợi mới được trả kết quả như trước.

Đối với các thủ tục hành chính về đất đai thuộc thẩm quyền ban hành của Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường quy định việc nộp sổ hộ khẩu, sổ tạm trú hoặc có yêu cầu về giấy tờ, tài liệu xác nhận về cư trú đã được rà soát.

Theo đó, tại khoản 5 Điều 11 Thông tư số 09/2021/TT-BTNMT đã quy định:

Với trường hợp nộp hồ sơ thực hiện thủ tục đăng ký đất đai, tài sản gắn liền với đất, cấp giấy chứng nhận mà có yêu cầu thành phần là bản sao giấy chứng minh nhân dân, thẻ căn cước công dân, hoặc sổ hộ khẩu, hoặc giấy tờ khác thì cơ quan tiếp nhận hồ sơ sử dụng dữ liệu từ cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư mà không yêu cầu người nộp hồ sơ phải nộp các giấy tờ này.

Chia sẻ