Không có mỹ phẩm, phi tần Việt ngày xưa dưỡng nhan bằng cách nào?
Từ xa xưa phụ nữ cũng đã hiểu rõ được thế mạnh khi có một nhan sắc đẹp, đặc biệt là các phi tần mỹ nữ. Và dù không có mỹ phẩm, họ vẫn sở hữu nhan sắc khuynh thành với những bảo bối dưỡng nhan sau.
Nếu có dịp được đến Nội cung của cố đô Huế, ắt hẳn không ít du khách sẽ trầm trồ bởi nét đẹp, làn da mịn của phi tần, mỹ nữ xưa trên các bức ảnh trắng đen trang trí trong nhà bảo tàng. Và vào thời đấy, quy trình sản xuất mỹ phẩm chưa tiên tiến, rộng khắp như bây giờ thì họ - những mỹ nhân ngày ấy đã dưỡng nhan bằng cách nào?
Cùng vén màn bí mật dưỡng nhan của phụ nữ xưa qua loạt sản phẩm thiên nhiên này nhé:
Dưỡng da từ cao lanh, tinh nghệ
Có nhiều tư liệu mô tả rằng bà Từ Cung (mẹ vua Bảo Đại) đến năm ngoài 60 da dẻ vẫn căng mịn, hồng hào, không hề có vết chân chim hay đốm đồi mồi nào. Sau này, thông qua cuộc phỏng vấn cung nữ cuối cùng của triều Nguyễn, bà Lê Thị Dinh đã tiết lộ một vài bí quyết dưỡng nhan của phi tần, đặc biệt trong số ấy được ưa chuộng hơn cả là phấn nụ được làm từ cao lanh (đất sét trắng).
Phấn nụ không chỉ là phấn dùng trang điểm mà còn là chất dưỡng da tinh chế từ tự nhiên. Phấn nụ được các cung nữ tự chế từ bột cao lanh của những tiệm uy tín. Bột này đem về nướng lên bằng than đến khi chín với màu trắng tuyết, rồi đem nghiền mịn và hòa với nước. Gạn đi gạn lại nhiều lần để loại bỏ tạp chất rồi sau đó đổ thành những nụ hoa, đem phơi khô cẩn thận và đem ướp với thảo dược và hương hoa.
Phấn nụ được dùng để trang điểm mặt và dưỡng da toàn thân, vào những ngày đông thì còn có tác dụng dưỡng ẩm cực tốt, chống nứt nẻ da cho phi tần. Chính vì vậy, trong cung từ phi lớn đến nhỏ, hay các cung nữ đều có riêng cho mình 1 nụ phấn để dưỡng nhan.
Không những thế, các cung nữ xưa còn biết cách trị thâm, trị mụn cho phi tần bằng việc bào chế dung dịch dưỡng da trị mụn từ nghệ. Củ nghệ được chọn lựa kỹ càng, sao tẩm cùng một số vị thuốc bắc như hồng hoa, cúc hoa, đương quy, …sau đó đem hạ thổ trong thời gian nhất định tạo thành một chất tổng hợp sử dụng điều trị cho các vùng da mụn, thâm giúp da đẹp và sáng hơn.
Tinh chế dầu thơm từ hoa trái
Chúng ta thường nghĩ nước hoa du nhập vào Việt Nam từ phương Tây, nhưng không phải thế, người Việt xưa cũng đã biết cách chiết xuất mùi hương từ cây trái quanh mình.
Trong sách Vân đài loại ngữ của Lê Qúy Đôn (1726-1784) có nhắc đến một loại nước hoa như sau: "Sách Quế Hải ngu hành chí" nói: "Bào hoa, người Nam gọi là Du hoa (hoa bưởi); hoa nở về cuối mùa xuân, nhị tròn, trắng như hạt châu lớn đã chiết thì giống hoa trà, hương thơm nhẹ.
Người Phiên [người bản thổ] hái hoa để nấu nước thơm, phong vị rất thú. Nay, tục nước nhà, người ta hái hoa bưởi, theo cách cất rượu mà cất nước hoa. Lấy mấy giọt nước hoa ấy, bôi vào đầu thì thấy thơm mát. Những nhà quý phái thường dùng để tặng nhau".
Vậy nếu người phương Tây dùng dầu chiết xuất từ cây hồi, cây quế... thì nước Nam ta từ xưa cũng đã biết dùng hoa bưởi để tạo mùi hương quyến rũ cho bản thân.
Son môi từ đất sét đỏ
Xem phim cổ trang chúng ta thường thấy phụ nữ xưa hay tô điểm môi bằng cách ngậm nhẹ một miếng giấy đỏ. Đó là mảnh giấy thấm hợp chất màu đỏ được chiết xuất từ bọ cánh cứng, hoa trái có màu đỏ...vào miếng giấy và khi ngậm sắc đỏ sẽ lan từ miếng giấy sang môi, làm đôi môi ửng hồng. Ngoài ra, người xưa còn biết dùng sáp ong trộn với ít hương liệu để làm sáp dưỡng môi chống nứt nẻ mỗi khi đông về.
Sau này, khi chế tạo son, một chút đất sét đỏ, khoáng và mỡ động vật được trộn vào để tạo ra một dung dịch đặc sệt màu đỏ. Loại son này được tạo ra vào thời Đường – thời hưng thịnh của phong kiến Trung Quốc với sự phát triển rực rỡ của kinh tế, văn hóa, nghệ thuật…và ngành mỹ phẩm sơ khai của Việt Nam cũng ảnh hưởng ít nhiều bởi cách chế tạo son này.
Một số sách dư địa chí cho biết về những nơi có đất sét đỏ để làm mỹ phẩm như ở Sơn Tây, Vĩnh Yên; trong sách Hải Dương phong vật chí chép rằng ở huyện Thanh Miện, phủ Hạ Hồng có loại đất màu đỏ như son.
Đặc biệt là ở khu vực núi Phượng Hoàng, huyện Chí Linh thuộc phủ Nam Sách (nay thuộc huyện Chí Linh, Hải Dương) "dưới núi có giếng, đáy giếng có thứ sơn tốt mềm nhuyễn như bùn, đem phơi khô thành sơn".
(Tổng hợp theo sách Hải Dương phong vật chí, Vân đài loại ngữ)