Tác hại khi nhiễm lậu dùng thuốc muộn

,
Chia sẻ

Khi điều trị muộn, không chỉ làm cho bệnh dễ bị các biến chứng nguy hiểm mà còn lây nhiễm cho người khác, trước hết là cho vợ hay chồng hoặc bạn tình.

Điều này không chỉ làm cho bệnh dễ bị các biến chứng nguy hiểm mà còn lây nhiễm cho người khác, trước hết là cho vợ hay chồng hoặc bạn tình.

Cần thiết nhận biết chữa sớm lậu ở nữ

Nữ bị nhiễm lậu trong tuần tháng đầu không có dấu hiệu bất thường, khó chịu. Sau đó, cổ tử cung (CTC) chảy mủ (đặc, vàng hay xanh; nếu bội nhiễm trùng roi thì mủ sẽ loãng và nhiều hơn), kèm theo ngứa vùng âm môn (khác với dịch bình thường không gây ngứa).

Vì CTC nằm khuất ở đáy âm đạo nên không nhìn thấy mủ. Có thể viêm niệu đạo, lúc tiểu tiện có cảm giác nóng bỏng, nhìn kỹ thấy đỏ ở lỗ niệu. Lậu thâm nhập vào tuyến bartholin (tuyến có chức năng bôi trơn các môi nhỏ khi bị kích thích) nhưng không gây ra triệu chứng gì đáng kể, chỉ có 1 - 2% trường hợp bị sưng to, đau, có khi có mủ.
 


Đôi khi mủ lan sang môi nhỏ gây viêm tấy, khó chịu. Do sự biểu hiện kín đáo, đa số nữ bị nhiễm lậu không hay biết đến khám muộn, thường sau khi mắc 8 - 10 tuần.

Khi điều trị muộn, lậu cầu xâm nhập vào màng trong tử cung, nhờ vào các tế bào chết và máu trong chu kỳ kinh nguyệt mà sinh sôi nảy nở; rồi đi ngược từ thành CTC lên vòi trứng gây viêm vòi trứng cấp hay bán cấp.

Ở dạng cấp, thường có kinh nguyệt không đều, đau, ra máu nhiều; sau đó ít ngày bị đau một hay cả hai bên bụng dưới, ngày càng nhiều, có khi dữ dội, sốt. Do các triệu chứng ồ ạt này mà người bệnh đến khám.

Nếu chữa sớm có thể khỏi viêm vòi trứng nhưng không thể xóa hết các thương tổn đã hình thành, không thể phục hồi một số chức năng buồng trứng. Một số tổ chức như: tử cung, vòi trứng, buồng trứng, bàng quang, trực tràng, phúc mạc tạo ra dãi kết dính.

Nội tiết buồng trứng bị ngưng trệ dẫn đến hành kinh kéo dài, xuất huyết bất thường ở tử cung, thỉnh thoảng bị rong huyết. Nếu không chữa thì vòi trứng viêm tấy, sưng to hình thành mủ và sẹo làm hẹp tắc vòi trứng.

Nếu chỉ hẹp và tắc nhẹ tại chỗ thì trứng được thụ tinh bị giam lại ở vòi trứng gây thai ngoài tử cung. Nếu cả hai vòi trứng đều bị tắc nặng thì sẽ bị vô sinh. Phải phát hiện sớm, dù không may phát hiện muộn cũng phải chữa ngay, không để chậm thêm làm cho biến chứng xấu hơn, di chứng nặng nề hơn.

Các thuốc thường dùng

Việc chọn kháng sinh, tùy thuộc vào chủng lậu bị nhiễm, tùy thuộc vào sự bội nhiễm, sự tiện lợi của người bệnh (dùng ít ngày hay kéo dài), cuối cùng là giá cả. Có 3 cách dùng thuốc:

- Dùng liều duy nhất penicillin: tiêm bắp penicillin - procain chỉ một lần (4,8 triệu IU). Cách này là cổ điển, song lại không chữa khỏi trường hợp nhiễm chủng lậu kháng -lactam (do sinh ra enzyme -lactamase), có thể chữa khỏi cả giang mai nhưng không chữa được chlamydia trachomatis bội nhiễm. Lưu ý có thể xảy ra dị ứng với penicillin hay procain (cần thử phản ứng dị ứng trước khi dùng).

 - Dùng liều duy nhất uống ciprofloxacin (500mg) hoặc liều duy nhất tiêm bắp ceftriaxon (250mg) hoặc liều duy nhất tiêm bắp spectinomycin (2g), đồng thời có kết hợp thêm doxycyclin (mỗi lần 100mg x mỗi ngày 2 lần x 7 ngày). Cách này chống được chlamydia trachomatis bội nhiễm.

- Dùng tetracylin trong 4 - 5 ngày, mỗi ngày 4 lần, mỗi lần 500mg. Cách này chữa được cả chlamydia trachomatis, trùng roi bội nhiễm nhưng hiệu quả trên chính bệnh lậu lại kém, không dùng được cho người có thai (vì sẽ ảnh hưởng đến việc tạo răng và men răng của thai).

Nhiễm lậu ở nữ mang thai và các thuốc thường dùng

Hiện nay có 4 cách dùng (tùy lựa chọn từng nước): amoxicilin + probenecid - spectinomycin – ceftriaxon - cefizim. Trừ spectinomycin, các kháng sinh còn lại đều thuộc nhóm –lactam nên việc chọn kháng sinh điều trị tùy thuộc vào tình trạng kháng thuốc (tức tình trạng sinh enzyme –lactamase của chủng lậu).


Tỷ lệ lậu kháng thuốc ở các nước phát triển thấp hơn các nước đang phát triển (như khu vực châu Á). Amoxicillin (-lactam cũ) + robenecid dạng uống tỏ ra kém hiệu quả với lậu, đặc biệt là trên các quần thể lậu sinh -lactamase so với 2 dạng thuốc tiêm ceftriaxon (cephalosporin thế hệ 3) và spectinomycin (aminozid).

Cefixim (cephalosporin thế hệ 3) dạng uống cũng được đưa vào điều trị trong thời gian gần đây (Thái Lan) tiện hơn, nhưng không được dùng rộng rãi.

Cách tiêm bắp liều duy nhất ceftriaxon hoặc spectinomycin là được áp dụng nhiều hơn cả, tuy giá có đắt hơn amoxicillin nhưng chỉ ở mức trung bình thích hợp cho cộng đồng. Hai thuốc uống thuộc nhóm macrolic thế hệ mới là azithromycin và chlarithromycin cũng được đề nghị dùng nhưng ít được hưởng ứng do giá quá cao.

Một vài khác biệt trong nhiễm lậu ở nam và các thuốc thường dùng

Nam nhiễm lậu sớm nhất là một ngày, thường là 3 - 5 ngày sau giao hợp; chậm nhất là sau 2 tuần sẽ có viêm niệu đạo (tiết dịch trong miệng sáo, dịch ngày càng đặc, có máu đục hay hơi xanh), lúc tiểu tiện bị nóng buốt khó khăn, có khi phải đi từng ít một.

Tuy nhiên, có khoảng 10 - 20% không có biểu hiện gì rõ rệt. Ngoài ra, người sinh hoạt tình dục đồng giới có các biểu hiện không điển hình (hậu môn chỉ hơi tấy đỏ kèm theo tiết ít dịch nhầy). Cũng có trường hợp viêm niệu đạo nhưng không do lậu cầu (như do chlamydia trachomatis).

Dù không chữa hay chỉ chữa sơ sài thì chứng viêm niệu đạo cũng có thể đỡ hay tự khỏi sau 2 tuần (dịch tiết ra ít dần, tiểu tiện ít buốt). Tuy nhiên lậu vẫn còn, xâm nhập vào niệu đạo sau, tuyến tiền liệt (khoảng 5 - 10% bị viêm tấy nóng bỏng kèm theo sốt, đau vùng hố chậu).

Lâu và xa hơn nữa, khoảng hơn 1 tháng sau, lậu xâm nhập vào ống dẫn tinh rồi vào tinh hoàn gây viêm một hay cả hai bên. Lúc đó, dù có dùng thuốc chăng nữa thì cũng để lại sẹo, nếu cả hai mào tinh hoàn đều bị sẹo thì đường dẫn tinh bị tắc nghẽn, dẫn tới vô sinh.

Dùng thuốc cho nam cũng như nữ (tiêm bắp liều duy nhất penicillin - procain (4,8 triệu IU), uống liều duy nhất ciprofloxacin (500mg), tiêm bắp liều duy nhất ceftriaxon (250mg), tiêm bắp liều duy nhất spectinomycin (2g) kết hợp với doxycyclin (mỗi lần 100mg x mỗi ngày 2 lần x 7 ngày) hoặc uống tetracyclin trong 4 - 5 ngày (mỗi ngày 4 lần, mỗi lần 500mg).


Tuy nhiên, ở nam có một số cách kiêng cử riêng: tránh lao động, chạy nhảy gây chấn động mạnh bộ phận sinh dục dễ làm cho biến chứng xuất hiện, lúc điều trị cấp tính phải nghỉ ngơi, sau khi khỏi cần tránh giao hợp 4 - 6 tháng, cần định kỳ xét nghiệm để theo dõi sự tái phát.

Cần khám lâm sàng, xét nghiệm chắc chắn mới dùng thuốc, càng sớm càng tốt, nếu chậm trễ hay chủ quan thấy đỡ mà chữa sơ sài thì sẽ bị biến chứng tai hại và lây cho vợ hay bạn tình.
Theo SKĐS
Chia sẻ