Nhờ cắt “của quý” người tình mà nên vợ chồng (II)
Đến giờ Hội đồng xét xử vào xử án, người ta thông báo là bị hại xin vắng mặt. Chưa hiểu điều gì xảy ra, nhưng trong thâm tâm, chị Th dường như đã bừng tỉnh, rồi những giọt nước mắt cứ rơi trên đôi má héo hon của chị sau những ngày bị dằn dặt, đau đớn vì lỗi lầm mình gây nên.
Phiên tòa đẫm nước mắt
Sau gần 5 tháng lẩn trốn và lân la tìm hiểu “người tình” sức khỏe ra sao, cuối cùng chị Th cũng ra Công an huyện nơi chị đang trốn đầu thú. Sau đó, chị Th được di lý về Công an huyện An Minh để hoàn tất công tác điều tra, để đưa ra xét xử theo đúng quy định của pháp luật.
Hôm diễn ra phiên tòa tại TAND huyện An Minh, bị cáo Th cứ cố quay đủ hướng để tìm kiếm thứ gì đó như bỏ quên trong phòng xét xử. Không! Chị Th đưa cặp mặt quanh phòng xử án để tìm anh T Nhưng mãi mà không thấy bóng dáng anh đâu.
Dù chưa tới giờ xử án, nhưng phòng xử hôm nay cũng chật kín người đến theo dõi. Họ đến đây không phải vì xem bản án nặng hay nhẹ; người tình có tha thứ hay không tha thứ… mà vì họ muốn nghe hết câu chuyện của một mối tình đẹp lại có một kết cục bi thảm như thế.
Hơn hết, để biết được vì sao một người phụ nữ lại dám ra tay manh động có một không hai như vậy. Đến giờ Hội đồng xét xử vào xử án, người ta thông báo là bị hại xin vắng mặt. Chưa hiểu điều gì xảy ra, nhưng trong thâm tâm, chị Th dường như đã bừng tỉnh, rồi những giọt nước mắt cứ rơi trên đôi má héo hon của chị sau những ngày bị dằn dặt, đau đớn vì lỗi lầm mình gây nên.
Cũng vì vậy, khi Hội đồng xét xử hỏi đến đâu, chị đều thật thà khai báo đến đó. Trong phiên tòa, chị Th chỉ biết khóc và cho rằng, chị hành động như vậy là vì vẫn còn yêu thương anh T. Bởi nếu không còn yêu anh và thật sự muốn giữ anh lại.
Nhưng chị cũng thừa nhận, hành động đó xảy ra trong do phút giây nóng nảy, thiếu kiềm chế và thiếu suy nghĩ chín chắn. Chị Th cứ thổn thức mãi trong phiên tòa ấy. Không chỉ có chị, nhiều phụ nữ có mặt trong phiên tòa cũng rơi lệ. Họ không phải thương khóc cho anh T hay chị Th mà chính ở phiên tòa này, mọi người mới ngộ nhận ra một điều:
Do học vấn thấp, sống ở vùng nông thôn, tối ngày chí thú lo làm ăn để lo cuộc sống, khi xảy ra chuyện không có người thân, bạn bè am hiểu tư vấn nên họ rất dễ lầm đường lạc lối.
Cũng chính vì lẽ đó, khi mà thấy anh T lao vào con đường rượu chè, gái gú thì không ai đến khuyên ngăn hay nói điều hay lẽ phải để anh thức tỉnh. Ngược lại, về phía chị Th, chị cũng chẳng có người thân bên cạnh, khi xảy ra chuyện thì những người bạn thay vì động viên, khuyên chị nên có thái độ đúng đắn, đối xử tốt với anh T, thì họ lại bảo chị phải chia tay anh.
Vì yêu và muốn giữ người mình yêu nhưng lại bồng bột nên chị Th mới để xảy ra kết cục đau buồn như vậy. Xét thấy bị cáo Th đã ăn năn hối cải và hoàn cảnh gia đình khó khăn, vi phạm lần đầu. Hơn hết, lúc gây án, bị cáo Th trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh.
Vì vậy, Viện Kiểm sát huyện An Minh truy tố bị cao Th về tội cố ý gây thương tích trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh theo khoản 1 Điều 105 Bộ luật hình sự, phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến 1 năm hoặc phạt tù từ 6 tháng đến 2 năm.
Nghe đến đây, mọi người trong phiên tòa đều thở phào nhẹ nhõm. Vì biết rằng chị Th gây án, nhưng ở đây người có lỗi trước là anh T nên ai có mặt trong phiên tòa cũng mong muốn chị Th có bản án không giam giữ sẽ tốt hơn. Sau khi nghị án chờ kết quả luận tội, trong phòng xử án không còn tiếng ồn ào như ngay buổi đầu xét xử mà thay vào đó là những tiếng khóc nức nở của chị Th.
Bây giờ chị mới ngộ nhận ra rằng, dù Tòa có tuyên xử bao nhiêu năm tù giam thì trong thâm tâm của chị, tòa án lương tâm cũng không bao giờ tha thứ cho lỗi lầm của chính mình. Bởi lẽ, dù có ở bao nhiêu năm tù, sau khi mãn hạn, chị sẽ trở lại làm công dân làm ăn, sinh hoạt bình thường.
Ngược lại, anh Th giờ đây không biết sinh sống ra sao. Dù vết thương có lành lặn đi nữa thì vết thương lòng khó mà tha thứ được. Rồi sau này anh T sẽ sống thế nào khi mà không còn chức năng làm đàn ông, làm chồng, làm cha…
Nghĩ đến đây chị chỉ tự trách mình sao mà nghĩ quẩn thế, nếu có đền bù bằng cả con người, chị Th cũng sẵn sàng chấp nhận đánh đổi để bù đắp lại cho anh T với việc làm của mình gây nên. Sau khi nghị án, Hội đồng xét xử đã xem xét nhiều tình tiết giảm nhẹ, trong đó điều đáng nói nhất là anh T. Chưa đến ngày xét xử, anh T một mình từ Đồng Tháp xuống xin gặp Tòa để trình bày nguyện vọng.
Tại đây, anh yêu cầu xin được vắng mặt trong ngày xét xử, thêm vào đó là không yêu cầu phía chị Th bồi thường tiền thuốc thang và nguyện vọng cuối cùng là anh tha thiết mong tòa xem xét giảm nhẹ hình phạt cho chị, vì do mình có lỗi trước. Nhờ vậy, Tòa chỉ tuyên phạt chị Th với hình phạt thấp nhất là án treo. Cả phiên tòa đều đứng lên vỗ tay cho bản án thật có tình, có lý.
Hàn gắn vết thương lòng
Trở về với quê nhà, dù là một bản án treo, nhưng trong lòng chị Th lúc nào cũng day dứt cho bản án “lòng” mà không thế nào xóa sạch được. Trằn trọc bao đêm không biết sao để gặp mặt được người mà mình đã từng chung sống với nhau như vợ chồng.
Chị Th nghĩ, giờ đây mình sẽ trở lại quê nhà sinh sống, làm ăn bình thường, nhưng anh Th thì chịu đựng rất nhiều lời gièm pha của bà con lối xóm. Khi mới trở về quê nhà, anh T lúc đầu cũng nghĩ quẩn đủ thứ, mong tìm đến cái chết để tạ tội với cha mẹ, người thân, bạn bè.
Thế nhưng, ba mẹ anh T hiểu rõ nổi khổ của con, lúc nào cũng động viên, an ủi. Bạn bè, bà con lối xóm dần cũng không còn có cái nhìn xa lạ, khác thường mà luôn động viên anh T phải cố gắng sống tốt với quãng đời còn lại.
Trong số họ, có người còn đặt ra câu hỏi, tại sao không hàn gắn lại cho hai người, dù gì cũng còn yêu nhau. Nghe được câu nói này, lúc đầu gia đình anh T kịch liệt phản đối, vì cho rằng đó là người đã cướp đi “của quý” của đời người, cũng giống như sinh mạng của một con người.
Thế nhưng, vài ngày sau đó, gia đình anh T đã suy nghĩ lại. Dù gì con mình cũng có lỗi trước, hai đứa vẫn còn yêu nhau, nhất là khi giữ con mình lại thì cũng chẳng cưới vợ, sinh con được… Nghĩ đến đây, gia đình hỏi anh T nếu thật sự còn yêu chị Th thì sẽ tìm cách cho hai người hàn gắn lại.
Như chỉ chờ có vậy, anh T gật đầu đồng ý. … Đã qua mấy đêm rồi không ngủ, mỗi lần cầm máy điện thoại lên định điện cho chị Th thì anh T lại không đủ can đảm, đành tắt máy, rồi tiếp tục suy nghĩ.
Trong lòng anh T lúc này cần chị hơn bao giờ hết. Anh cần sự chăm sóc, chia sẻ yêu thương; cần được gặp chị để nói lời xin lỗi; cần chị để nói lại lời yêu thương ban đầu… Ngược lại, chị Th cũng tha thiết muốn có anh bên cạnh để chăm sóc quãng đời còn lại để chuộc lỗi lầm do mình gây nên.
Rồi một ngày nào đó, như có ai mách bảo là hai người cần được gần nhau, không thể thiếu nhau dù một phút, một giây nào nữa. Anh T chủ động điện thoại cho chị Th để bày tỏ nỗi lòng của mình. Thấy số điện thoại quen thuộc ngày nào, chị Th như không thể tin vào mắt mình.
Rồi sau đó nghe giọng nói quen thuộc và những lời cùng với suy nghĩ của anh T, chị Th không còn lời nào để nói. Chị Th chỉ biết khóc, những giọt nước mắt hạnh phúc chực trào ra như chỉ chờ đón anh T về chung sống với mình càng sớm càng tốt.
Sau cuộc điện thoại ấy, hai người đã thật sự đến với nhau và hiện nay họ sống với nhau thật hạnh phúc trong căn nhà được dựng lên trên một con sông nối với dòng sông Hậu hiền hòa ở huyện Giồng Riềng của tỉnh Kiên Giang.
Sau gần 5 tháng lẩn trốn và lân la tìm hiểu “người tình” sức khỏe ra sao, cuối cùng chị Th cũng ra Công an huyện nơi chị đang trốn đầu thú. Sau đó, chị Th được di lý về Công an huyện An Minh để hoàn tất công tác điều tra, để đưa ra xét xử theo đúng quy định của pháp luật.
Hôm diễn ra phiên tòa tại TAND huyện An Minh, bị cáo Th cứ cố quay đủ hướng để tìm kiếm thứ gì đó như bỏ quên trong phòng xét xử. Không! Chị Th đưa cặp mặt quanh phòng xử án để tìm anh T Nhưng mãi mà không thấy bóng dáng anh đâu.
Dù chưa tới giờ xử án, nhưng phòng xử hôm nay cũng chật kín người đến theo dõi. Họ đến đây không phải vì xem bản án nặng hay nhẹ; người tình có tha thứ hay không tha thứ… mà vì họ muốn nghe hết câu chuyện của một mối tình đẹp lại có một kết cục bi thảm như thế.
Tòa chỉ tuyên phạt chị Th với hình phạt thấp nhất là án treo. Cả phiên tòa đều đứng lên vỗ tay cho bản án thật có tình, có lý. (Ảnh minh họa)
Hơn hết, để biết được vì sao một người phụ nữ lại dám ra tay manh động có một không hai như vậy. Đến giờ Hội đồng xét xử vào xử án, người ta thông báo là bị hại xin vắng mặt. Chưa hiểu điều gì xảy ra, nhưng trong thâm tâm, chị Th dường như đã bừng tỉnh, rồi những giọt nước mắt cứ rơi trên đôi má héo hon của chị sau những ngày bị dằn dặt, đau đớn vì lỗi lầm mình gây nên.
Cũng vì vậy, khi Hội đồng xét xử hỏi đến đâu, chị đều thật thà khai báo đến đó. Trong phiên tòa, chị Th chỉ biết khóc và cho rằng, chị hành động như vậy là vì vẫn còn yêu thương anh T. Bởi nếu không còn yêu anh và thật sự muốn giữ anh lại.
Nhưng chị cũng thừa nhận, hành động đó xảy ra trong do phút giây nóng nảy, thiếu kiềm chế và thiếu suy nghĩ chín chắn. Chị Th cứ thổn thức mãi trong phiên tòa ấy. Không chỉ có chị, nhiều phụ nữ có mặt trong phiên tòa cũng rơi lệ. Họ không phải thương khóc cho anh T hay chị Th mà chính ở phiên tòa này, mọi người mới ngộ nhận ra một điều:
Do học vấn thấp, sống ở vùng nông thôn, tối ngày chí thú lo làm ăn để lo cuộc sống, khi xảy ra chuyện không có người thân, bạn bè am hiểu tư vấn nên họ rất dễ lầm đường lạc lối.
Cũng chính vì lẽ đó, khi mà thấy anh T lao vào con đường rượu chè, gái gú thì không ai đến khuyên ngăn hay nói điều hay lẽ phải để anh thức tỉnh. Ngược lại, về phía chị Th, chị cũng chẳng có người thân bên cạnh, khi xảy ra chuyện thì những người bạn thay vì động viên, khuyên chị nên có thái độ đúng đắn, đối xử tốt với anh T, thì họ lại bảo chị phải chia tay anh.
Vì yêu và muốn giữ người mình yêu nhưng lại bồng bột nên chị Th mới để xảy ra kết cục đau buồn như vậy. Xét thấy bị cáo Th đã ăn năn hối cải và hoàn cảnh gia đình khó khăn, vi phạm lần đầu. Hơn hết, lúc gây án, bị cáo Th trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh.
Vì vậy, Viện Kiểm sát huyện An Minh truy tố bị cao Th về tội cố ý gây thương tích trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh theo khoản 1 Điều 105 Bộ luật hình sự, phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến 1 năm hoặc phạt tù từ 6 tháng đến 2 năm.
Nghe đến đây, mọi người trong phiên tòa đều thở phào nhẹ nhõm. Vì biết rằng chị Th gây án, nhưng ở đây người có lỗi trước là anh T nên ai có mặt trong phiên tòa cũng mong muốn chị Th có bản án không giam giữ sẽ tốt hơn. Sau khi nghị án chờ kết quả luận tội, trong phòng xử án không còn tiếng ồn ào như ngay buổi đầu xét xử mà thay vào đó là những tiếng khóc nức nở của chị Th.
Bây giờ chị mới ngộ nhận ra rằng, dù Tòa có tuyên xử bao nhiêu năm tù giam thì trong thâm tâm của chị, tòa án lương tâm cũng không bao giờ tha thứ cho lỗi lầm của chính mình. Bởi lẽ, dù có ở bao nhiêu năm tù, sau khi mãn hạn, chị sẽ trở lại làm công dân làm ăn, sinh hoạt bình thường.
Ngược lại, anh Th giờ đây không biết sinh sống ra sao. Dù vết thương có lành lặn đi nữa thì vết thương lòng khó mà tha thứ được. Rồi sau này anh T sẽ sống thế nào khi mà không còn chức năng làm đàn ông, làm chồng, làm cha…
Nghĩ đến đây chị chỉ tự trách mình sao mà nghĩ quẩn thế, nếu có đền bù bằng cả con người, chị Th cũng sẵn sàng chấp nhận đánh đổi để bù đắp lại cho anh T với việc làm của mình gây nên. Sau khi nghị án, Hội đồng xét xử đã xem xét nhiều tình tiết giảm nhẹ, trong đó điều đáng nói nhất là anh T. Chưa đến ngày xét xử, anh T một mình từ Đồng Tháp xuống xin gặp Tòa để trình bày nguyện vọng.
Tại đây, anh yêu cầu xin được vắng mặt trong ngày xét xử, thêm vào đó là không yêu cầu phía chị Th bồi thường tiền thuốc thang và nguyện vọng cuối cùng là anh tha thiết mong tòa xem xét giảm nhẹ hình phạt cho chị, vì do mình có lỗi trước. Nhờ vậy, Tòa chỉ tuyên phạt chị Th với hình phạt thấp nhất là án treo. Cả phiên tòa đều đứng lên vỗ tay cho bản án thật có tình, có lý.
Hàn gắn vết thương lòng
Trở về với quê nhà, dù là một bản án treo, nhưng trong lòng chị Th lúc nào cũng day dứt cho bản án “lòng” mà không thế nào xóa sạch được. Trằn trọc bao đêm không biết sao để gặp mặt được người mà mình đã từng chung sống với nhau như vợ chồng.
Chị Th nghĩ, giờ đây mình sẽ trở lại quê nhà sinh sống, làm ăn bình thường, nhưng anh Th thì chịu đựng rất nhiều lời gièm pha của bà con lối xóm. Khi mới trở về quê nhà, anh T lúc đầu cũng nghĩ quẩn đủ thứ, mong tìm đến cái chết để tạ tội với cha mẹ, người thân, bạn bè.
Thế nhưng, ba mẹ anh T hiểu rõ nổi khổ của con, lúc nào cũng động viên, an ủi. Bạn bè, bà con lối xóm dần cũng không còn có cái nhìn xa lạ, khác thường mà luôn động viên anh T phải cố gắng sống tốt với quãng đời còn lại.
Trong số họ, có người còn đặt ra câu hỏi, tại sao không hàn gắn lại cho hai người, dù gì cũng còn yêu nhau. Nghe được câu nói này, lúc đầu gia đình anh T kịch liệt phản đối, vì cho rằng đó là người đã cướp đi “của quý” của đời người, cũng giống như sinh mạng của một con người.
Thế nhưng, vài ngày sau đó, gia đình anh T đã suy nghĩ lại. Dù gì con mình cũng có lỗi trước, hai đứa vẫn còn yêu nhau, nhất là khi giữ con mình lại thì cũng chẳng cưới vợ, sinh con được… Nghĩ đến đây, gia đình hỏi anh T nếu thật sự còn yêu chị Th thì sẽ tìm cách cho hai người hàn gắn lại.
Như chỉ chờ có vậy, anh T gật đầu đồng ý. … Đã qua mấy đêm rồi không ngủ, mỗi lần cầm máy điện thoại lên định điện cho chị Th thì anh T lại không đủ can đảm, đành tắt máy, rồi tiếp tục suy nghĩ.
Trong lòng anh T lúc này cần chị hơn bao giờ hết. Anh cần sự chăm sóc, chia sẻ yêu thương; cần được gặp chị để nói lời xin lỗi; cần chị để nói lại lời yêu thương ban đầu… Ngược lại, chị Th cũng tha thiết muốn có anh bên cạnh để chăm sóc quãng đời còn lại để chuộc lỗi lầm do mình gây nên.
Rồi một ngày nào đó, như có ai mách bảo là hai người cần được gần nhau, không thể thiếu nhau dù một phút, một giây nào nữa. Anh T chủ động điện thoại cho chị Th để bày tỏ nỗi lòng của mình. Thấy số điện thoại quen thuộc ngày nào, chị Th như không thể tin vào mắt mình.
Rồi sau đó nghe giọng nói quen thuộc và những lời cùng với suy nghĩ của anh T, chị Th không còn lời nào để nói. Chị Th chỉ biết khóc, những giọt nước mắt hạnh phúc chực trào ra như chỉ chờ đón anh T về chung sống với mình càng sớm càng tốt.
Sau cuộc điện thoại ấy, hai người đã thật sự đến với nhau và hiện nay họ sống với nhau thật hạnh phúc trong căn nhà được dựng lên trên một con sông nối với dòng sông Hậu hiền hòa ở huyện Giồng Riềng của tỉnh Kiên Giang.