Nguyễn Thị Định - biểu tượng bất khuất của phụ nữ Việt Nam trong hành trình giải phóng dân tộc

Khánh Hà,
Chia sẻ

Bà Nguyễn Thị Định là nữ tướng đầu tiên của Quân đội nhân dân Việt Nam, biểu tượng anh hùng của phụ nữ Việt trong công cuộc kháng chiến và giải phóng dân tộc.

Lịch sử Việt Nam tự hào ghi danh biết bao anh hùng liệt nữ đã làm rạng danh dân tộc. Trong số những tên tuổi rực sáng ấy, Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân Nguyễn Thị Định - nữ tướng đầu tiên của Quân đội nhân dân Việt Nam, vẫn luôn là hình ảnh bất tử của lòng yêu nước, ý chí kiên cường và khát vọng tự do.

Nhân kỷ niệm 50 năm ngày thống nhất đất nước (30/4/1975 - 30/4/2025), nhớ về bà chính là nhớ về một biểu tượng sống động của tinh thần "giặc đến nhà, đàn bà cũng đánh", của vẻ đẹp "anh hùng, bất khuất, trung hậu, đảm đang" mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng ngợi ca.

Một đời vì nước, một trái tim vì dân

Bà Nguyễn Thị Định - từ cô gái Bến Tre đến nữ anh hùng giải phóng miền Nam, đã hiến trọn cuộc đời mình cho lý tưởng cao đẹp: Vì độc lập dân tộc, vì tự do của nhân dân, vì hạnh phúc của những thế hệ mai sau.

Cuộc đời bà Nguyễn Thị Định in đậm những vết hằn của thiệt thòi và mất mát, nhưng cũng chính những điều đó đã hun đúc nơi bà một ý chí thép - quyết không cúi đầu trước kẻ thù. Năm 1940, chỉ ba ngày sau khi vượt cạn, bà cùng chồng bị giặc bắt. Bị biệt giam tại nhà tù Bà Rá (tỉnh Sông Bé, nay là Bình Phước), bà buộc lòng gửi con thơ lại cho gia đình chăm sóc, để tiếp tục cuộc chiến đấu không khoan nhượng vì độc lập dân tộc.

Tuổi thơ dữ dội và sớm giác ngộ cách mạng

Bà Nguyễn Thị Định sinh năm 1920 tại xã Lương Hòa, huyện Giồng Trôm, tỉnh Bến Tre - mảnh đất giàu truyền thống yêu nước. Tuổi thơ của bà gắn liền với những năm tháng đất nước chìm trong ách đô hộ thực dân Pháp, nhân dân lầm than, quê hương dậy sóng phong trào đấu tranh.

Ngay từ năm 16 tuổi, bà Nguyễn Thị Định đã tham gia phong trào đấu tranh chống sưu thuế, chống đàn áp ở địa phương. Năm 1936, khi phong trào Mặt trận Dân chủ Đông Dương bùng nổ, bà trở thành một trong những hạt nhân tích cực. Tư tưởng yêu nước và khát vọng đổi đời đã thôi thúc bà dấn thân vào con đường cách mạng từ rất sớm, không màng hiểm nguy, tù đày.

Những năm tháng kiên cường trong lao tù

Cuộc đời cách mạng của bà Nguyễn Thị Định không thiếu những năm tháng tù tội gian khổ. 

Năm 1940, chồng bà bị bắt giam, đày ra Côn Đảo và hy sinh tại đó. Nửa năm sau, bà cũng bị giặc bắt đày đi Bà Rá (thuộc tỉnh Bình Phước ngày nay). Suốt ba năm bị đày đọa trong chốn lao tù khắc nghiệt, bà Nguyễn Thị Định vẫn một mực giữ vững khí tiết, kiên trung với lý tưởng cách mạng. Mãi đến năm 1943, khi bệnh tình trở nặng, kẻ thù buộc phải thả bà về quê nhà, đặt dưới sự quản lý của chính quyền địa phương. Nhưng ngay lúc chưa kịp hồi phục hoàn toàn, một nỗi đau khác đã ập đến: Bà hay tin chồng mình - người đồng chí, người bạn đời thân thiết, đã hy sinh nơi địa ngục Côn Đảo.

Không để bi kịch cá nhân làm lu mờ sứ mệnh dân tộc, bà nhanh chóng nối lại liên lạc với tổ chức Đảng và chính quyền cách mạng tỉnh Bến Tre. Bà tham gia trực tiếp vào cuộc Tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1945, góp công lớn vào việc giành chính quyền tại thị xã Bến Tre - nơi sau này mang tên thành phố bà đã góp sức dựng xây từ những ngày đầu giải phóng.

Khởi xướng phong trào Đồng khởi Bến Tre

Nhắc đến tên tuổi bà Nguyễn Thị Định, không thể không nhắc đến Phong trào Đồng khởi năm 1960 tại Bến Tre - sự kiện mang tính bước ngoặt trong lịch sử cách mạng miền Nam.

Tháng 3/1946, khi mới 26 tuổi, bà được giao nhiệm vụ đặc biệt: Trở thành một trong những thành viên đầu tiên của "Đoàn tàu không số" huyền thoại, mang theo tin tức từ chiến trường miền Nam ra báo cáo với Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh. Không chỉ vậy, bà còn chỉ huy vận chuyển an toàn 12 tấn vũ khí từ miền Bắc vào miền Nam, mở đầu cho con đường huyền thoại Hồ Chí Minh trên biển - tuyến vận tải chiến lược góp phần quan trọng trong thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ.

Từ năm 1947 đến 1951, bà giữ nhiều vị trí lãnh đạo quan trọng: Tỉnh ủy viên, Đoàn trưởng Phụ nữ cứu quốc, Ủy viên Mặt trận Liên Việt tỉnh Bến Tre, Phó Bí thư Huyện ủy kiêm Chủ tịch Mặt trận huyện Mỏ Cày, và Ủy viên Ban Chấp hành Phụ nữ Cứu quốc Nam Bộ. Từ 1952 đến 1960, bà tiếp tục được tín nhiệm bầu vào Ban Thường vụ Tỉnh ủy, giữ cương vị Phó Bí thư rồi Bí thư Tỉnh ủy, đồng thời là Hội trưởng Phụ nữ tỉnh Bến Tre.

Cuối năm 1959, tại Hội nghị đại biểu các tỉnh tổ chức ở căn cứ Tam Thường (Hồng Ngự, Kiến Phong - nay là Đồng Tháp), bà là người chủ chốt triển khai Nghị quyết 15 của Trung ương Đảng và phương châm hành động “Đồng lòng, đồng bộ, đồng loạt” của Khu ủy Khu VIII. Tầm nhìn chiến lược và bản lĩnh tổ chức của bà đã tạo tiền đề cho sự bùng nổ của phong trào Đồng khởi Bến Tre đầu năm 1960.

Bà chính là nguồn cảm hứng sống động và là người dẫn đầu “Đội quân tóc dài” - lực lượng phụ nữ vũ trang nổi bật, sử dụng cả đấu tranh chính trị và binh vận để làm tan rã hệ thống kìm kẹp của kẻ thù. Trong thế trận “Ba mũi giáp công” - chính trị, quân sự, binh vận - bà Nguyễn Thị Định là hiện thân của cả ba, đầy khéo léo và dũng cảm.

"Anh hùng, bất khuất, trung hậu, đảm đang"

Từ năm 1961 đến 1975, bà giữ cương vị Chủ tịch Hội Liên hiệp Phụ nữ Giải phóng miền Nam, đồng thời là Phó Tư lệnh các lực lượng vũ trang Giải phóng miền Nam Việt Nam. Năm 1974, bà được phong hàm Thiếu tướng - trở thành nữ tướng đầu tiên của Quân đội Nhân dân Việt Nam, một mốc son rực rỡ trong lịch sử đấu tranh của phụ nữ nước nhà.

Sau ngày đất nước hoàn toàn thống nhất, bà Nguyễn Thị Định tiếp tục là người phụ nữ tiên phong trên mặt trận mới - xây dựng và phát triển đất nước. Bà lần lượt giữ nhiều trọng trách quan trọng: Ủy viên Trung ương Đảng khóa IV đến VI, Đại biểu Quốc hội khóa VI đến VIII, Thứ trưởng Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, Bí thư Đảng đoàn kiêm Chủ tịch Trung ương Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, Phó Chủ tịch Hội đồng Nhà nước, Chủ tịch Hội Hữu nghị Việt Nam - Cuba.

Ở bất kỳ cương vị nào, bà cũng cống hiến với tinh thần tận tụy, sâu sát thực tế và luôn lấy quyền lợi của nhân dân, đặc biệt là phụ nữ và trẻ em, làm trung tâm trong mọi quyết sách. Bà tích cực thúc đẩy đổi mới hoạt động của Quốc hội và Hội đồng Nhà nước, góp phần quan trọng vào tiến trình cải cách và phát triển của đất nước trong giai đoạn hậu chiến.

Với những cống hiến to lớn, bà vinh dự được Đảng, Nhà nước và bạn bè quốc tế trao tặng nhiều phần thưởng cao quý:

- Huân chương Quân công hạng Nhất

- Huân chương Chiến công hạng Nhất

- Huân chương Chống Mỹ cứu nước hạng Nhất

- Huân chương Vì củng cố hòa bình giữa các dân tộc

- Giải thưởng Hòa bình Quốc tế Lê Nin

- Huân chương HiRon của Cuba, cùng nhiều huân chương khác.

Đặc biệt, vào năm 1995, bà Nguyễn Thị Định được truy tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân - một vinh dự xứng đáng cho một người phụ nữ đã hiến trọn đời mình cho lý tưởng cách mạng.

Cuộc đời cách mạng của bà khép lại vào ngày 26/8/1992, sau hơn 56 năm cống hiến không ngơi nghỉ, nhưng tầm vóc và tinh thần bà Nguyễn Thị Định vẫn còn mãi như một tượng đài bất tử trong lòng nhân dân Việt Nam.

Nguyễn Thị Định - biểu tượng bất khuất của phụ nữ Việt Nam trong hành trình giải phóng dân tộc  - Ảnh 5.

Ảnh tư liệu

50 năm sau ngày thống nhất đất nước, khi những bản hùng ca vẫn còn vang vọng, hình ảnh bà Nguyễn Thị Định vẫn và sẽ in đậm trong tâm trí người Việt Nam như một biểu tượng vĩnh cửu của lòng yêu nước, sự kiên cường và đức hy sinh cao cả. Tên tuổi bà đã được đặt cho nhiều đường phố, trường học trên cả nước. Khu lưu niệm Nguyễn Thị Định tại Bến Tre trở thành nơi tri ân và giáo dục truyền thống cho thế hệ trẻ.

Bà Nguyễn Thị Định không chỉ là nữ tướng đầu tiên, không chỉ là người mẹ, người chị của những đội quân tóc dài, mà còn là hiện thân đẹp đẽ nhất của tinh thần Việt Nam: "Anh hùng, bất khuất, trung hậu, đảm đang".

Trong thời đại mới, khi đất nước đang vươn mình hội nhập, tinh thần Nguyễn Thị Định vẫn soi sáng cho thế hệ trẻ: Hãy dám nghĩ lớn, dám hành động vì cộng đồng. Hãy sống giản dị mà sâu sắc, kiên cường mà nhân hậu.

Và trên hết, hãy giữ trọn lòng yêu nước như ngọn lửa không bao giờ tắt trong tim.

Nhớ về bà Nguyễn Thị Định, là nhắc nhau về một niềm tin bất diệt: Dù thời gian có đổi thay, nhưng đất nước này, con người Việt Nam này, sẽ mãi mãi tiếp bước cha ông, xứng đáng với những hy sinh to lớn của những người đi trước.

Chia sẻ