Môi trường làm việc "độc hại" là thủ phạm gây trầm cảm: Số người mắc bệnh hoặc có ý định tự tử gia tăng?
Liệu bạn có đang ở trong môi trường làm việc "độc hại"? Làm sao để ngăn chặn những cảm xúc tiêu cực để luôn giữ tinh thần khỏe mạnh?
Lan Anh (25 tuổi, quê Hà Nam) tâm sự, mẹ cô là một giáo viên mầm non, định kỳ đi khám trầm cảm ở một phòng khám thần kinh. Một trong những nguyên nhân gây bệnh cho mẹ cô là hậu quả của rối loạn lo âu kéo dài gây thoái hóa một vùng não. Bác sĩ cho rằng đây là hệ quả từ môi trường làm việc "độc hại"(!?). Được biết mẹ cô là giáo viên mầm non, chịu tiếng ồn của trẻ con khóc mỗi ngày...
Thế Nam (26 tuổi, sinh viên trường Đại học Y Hà Nội, làm thêm tại một phòng khám) kể, cậu gặp rất nhiều bệnh nhân đến khám trầm cảm, hầu hết là dân lao động nghèo.
Có anh làm nghề bốc vác chia sẻ mình không thể ngủ. Mỗi ngày cùng lắm là ngủ được 2-3 tiếng. Vì mất ngủ nên cơ thể suy nhược, 1 tuần đi vác gạo được 2-3 ngày là cùng. Người thân không hiểu lại kêu anh lười biếng chứ có bệnh gì đâu?
Khi mất ngủ, những suy nghĩ đen tối cùng cực cứ kéo đến khiến anh không thể kiểm soát, chẳng hạn như "mình phải dậy đi làm, nếu không làm mình sẽ không có tiền, không tiền là chết". Suy nghĩ lặp đi lặp lại cứ như có hẳn dòng chữ đó ngay trước mắt, còn anh thì bị "trói lại", ép đọc dòng chữ đó mà không thể phản kháng. Trong đầu thì nghĩ mình phải đi làm, nhưng tay chân không nhúc nhích, mắt không thấy đường... May mắn là anh quyết tâm đi khám bệnh.
Chị Hoa (35 tuổi, bán hàng tạp hóa ở Cổ Nhuế, Từ Liêm, Hà Nội) rất hay đánh con, vừa đánh vừa nghĩ trong đầu những suy nghĩ tiêu cực dù thằng bé chỉ đơn giản là ngáp trước mặt chị. Lúc nào chị cũng cảm thấy mình muốn buông lời nguyền rủa những người xung quanh.
Chị cũng không ngủ được vì trong đầu cứ lặp đi lặp lại những suy nghĩ thiếu tích cực đó. Chị đi khám. Suốt buổi khám, bác sĩ và các bệnh nhân khác kiên nhẫn ngồi nghe câu chuyện của chị và cảm nhận được chị đang bế tắc như thế nào.
Trầm cảm khi ở trong môi trường làm việc "độc hại" phải chăng giờ đây quá đỗi phổ biến? Chúng ta hãy cùng trao đổi với TS Lê Nguyên Phương (Chuyên gia Giáo dục và Tâm lý) để tìm hiểu sâu hơn về chủ đề này cũng như làm sao để nhận biết trầm cảm, tìm kiếm giải pháp ngăn chặn kịp thời.
PV: Thưa chuyên gia, với những trường hợp như trên đưa ra, liệu đó có phải là trầm cảm?
TS Lê Nguyên Phương: Trước hết, chúng ta cần phân biệt rõ khái niệm môi trường "độc hại" với áp lực thông thường trong công việc. Môi trường có yếu tố "độc hại" thường kéo dài tình trạng tiêu cực, xung đột, quấy rối... Còn áp lực hàng ngày như tiếng khóc ở lớp mầm non hay gánh nặng kinh tế gia đình không mặc định là "độc hại".
Nhiều người nhầm lẫn giữa stress và trầm cảm khi thấy bản thân hoặc người khác thường xuyên mệt mỏi, bực bội. Trên thực tế, trầm cảm có những tiêu chí chẩn đoán khắt khe, như cảm giác buồn bã hoặc mất hứng thú kéo dài, nên không phải bất cứ khó chịu tâm lý nào cũng là trầm cảm.
Hơn nữa, hành vi cáu gắt, quát mắng con hoặc phải đi khám bác sĩ định kỳ chưa chắc là dấu hiệu của rối loạn tâm lý nghiêm trọng. Việc dán nhãn vội vàng có thể khiến chúng ta đánh đồng căng thẳng tạm thời với những rối loạn tinh thần cần can thiệp y tế.
Cuối cùng, giải pháp an toàn nhất cho người nghi ngờ mình hoặc người thân mắc trầm cảm hay bất ổn tâm lý là tìm đến sự hỗ trợ từ chuyên gia. Đánh giá lâm sàng chuyên sâu và sự hướng dẫn phù hợp sẽ giúp họ có hướng giải quyết đúng đắn, đồng thời tránh được hiểu lầm hay áp đặt sai.
PV: Hiện nay, trầm cảm không chỉ gặp ở người giàu mà có khắp nơi. Nhiều người nói đó là tình trạng "rảnh rỗi sinh nông nổi", tiến sĩ nghĩ sao về quan điểm này?
TS Lê Nguyên Phương: Trước hết, tôi nghĩ là chúng ta cần khẳng định, trầm cảm và các vấn đề sức khỏe tinh thần không phải là căn bệnh "chỉ của người giàu" hay xuất hiện khi ai đó "nhàn rỗi".
Các nghiên cứu từ Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) hay Hiệp hội Tâm lý Hoa Kỳ (APA) cho thấy, trầm cảm xuất hiện ở mọi nhóm tuổi, giới tính và điều kiện kinh tế - xã hội khác nhau. Dù hoàn cảnh sống có thể ảnh hưởng đến mức độ căng thẳng, không có nghĩa chỉ những ai sung túc hoặc "nhàn rỗi" mới mắc phải vấn đề này.
Tiếp theo, quan niệm "rảnh rỗi sinh nông nổi" có thể dẫn tới hiểu lầm nghiêm trọng về bản chất của trầm cảm.
Trầm cảm (Major Depressive Disorder) là một rối loạn tâm trạng (mood disorders), có đặc điểm kéo dài nhiều tuần hay nhiều tháng với các biểu hiện chán nản, mất hứng thú trong hầu hết hoạt động, khó ngủ, mệt mỏi, hoặc thậm chí suy nghĩ tiêu cực về bản thân. Đây là một tình trạng y khoa cần được quan tâm và can thiệp, không phải là hậu quả đơn thuần của việc thiếu việc làm hay thiếu bận rộn.
Hơn nữa, người gặp các vấn đề về sức khỏe tinh thần thường rơi vào vòng luẩn quẩn của căng thẳng, suy giảm chức năng làm việc và học tập, mất đi khả năng tận hưởng cuộc sống. Điều này có thể xảy ra với bất kỳ ai, kể cả những người đang phải mưu sinh vất vả lẫn những người có công việc ổn định nhưng chịu áp lực cao. Vì thế, cho rằng trầm cảm chỉ xảy ra ở một nhóm người hoặc do một lối sống nhất định vừa thiếu chính xác, vừa có thể vô tình làm gia tăng định kiến.
Cuối cùng, để phòng tránh hoặc giảm thiểu trầm cảm, cần khuyến khích tiếp cận hỗ trợ chuyên môn khi có dấu hiệu nghi ngờ, như gặp chuyên gia tâm lý hoặc bác sĩ chuyên khoa. Bên cạnh đó, việc duy trì lối sống cân bằng, đảm bảo thời gian nghỉ ngơi, vận động thể chất và giao lưu xã hội phù hợp cũng đóng vai trò quan trọng. Thay vì xem trầm cảm là "rảnh rỗi sinh nông nổi", chúng ta cần nhìn nhận đây là một vấn đề sức khỏe tinh thần có thể được điều trị hiệu quả nếu nhận được sự hiểu biết và đồng hành đúng lúc.
PV: Trong cuộc sống hàng ngày, dù cho chúng ta làm ngành nghề gì, ở độ tuổi nào, làm sao để biết mình có dấu hiệu trầm cảm, cần tìm đến chuyên gia sớm thưa ông?
TS Lê Nguyên Phương: Trầm cảm là một rối loạn tâm trạng được chẩn đoán thông qua các tiêu chí chặt chẽ. Những triệu chứng chính thường bao gồm:
- Tâm trạng trầm buồn, chán nản kéo dài hầu như cả ngày, nhiều ngày trong tuần.
- Mất hứng thú với những hoạt động thường ngày.
- Biểu hiện mệt mỏi, thiếu năng lượng.
- Rối loạn giấc ngủ (mất ngủ hoặc ngủ quá nhiều).
- Thay đổi khẩu vị hoặc cân nặng bất thường.
- Cảm giác tự ti hoặc tội lỗi quá mức.
- Khó tập trung, khó đưa ra quyết định.
- Có ý nghĩ về cái chết hoặc muốn tự tử.
Để chẩn đoán trầm cảm, các triệu chứng này phải kéo dài ít nhất 2 tuần, gây suy giảm rõ rệt trong các hoạt động xã hội, công việc hoặc lĩnh vực quan trọng khác của cuộc sống. Chỉ những áp lực và căng thẳng thông thường, dù mạnh mẽ, cũng chưa đủ xác định một người bị trầm cảm.
PV: Từ rất nhiều câu chuyện trầm cảm muốn tự tử diễn ra khắp nơi, những giải pháp ngăn chặn nào có thể được đưa ra, thưa Tiến sĩ?
TS Lê Nguyên Phương: Trước hết, cần nhận thức rằng trầm cảm và ý định tự tử không chỉ xảy ra ở "một nơi nào đó" mà có thể xảy ra với bất cứ ai. Việc coi trầm cảm như vấn đề cá biệt hoặc "khắp nơi" có thể khiến chúng ta đánh giá sai tình hình và dẫn đến tâm lý hoang mang. Thay vì hoang mang, điều quan trọng là phải xem trầm cảm là một vấn đề sức khỏe tâm thần thực sự cần được hỗ trợ đúng cách.
Tiếp đến, giải pháp ngăn chặn trước tiên là nâng cao nhận thức, tránh hiểu lầm và hạn chế gắn mác. Cần khuyến khích những người có triệu chứng nghi ngờ trầm cảm (ví dụ thường xuyên buồn bã, mất hứng thú, mệt mỏi kéo dài) tiếp cận chuyên gia tâm lý hoặc bác sĩ chuyên khoa. Bên cạnh việc điều trị bằng tâm lý trị liệu và/hoặc thuốc, người có nguy cơ cao cần được gia đình, bạn bè theo dõi sát sao, thường xuyên thăm hỏi và hỗ trợ tinh thần.
Cuối cùng, mỗi cá nhân trong cộng đồng có thể góp phần bằng cách lan tỏa sự cảm thông, thấu hiểu, sẵn sàng lắng nghe những ai đang gặp khó khăn tâm lý. Chính sự quan tâm kịp thời và đúng hướng sẽ giúp ngăn chặn suy nghĩ tiêu cực, hành vi tự hại. Nếu bạn hoặc ai đó đang suy nghĩ về tự tử, hãy mạnh dạn tìm đến các tổng đài tư vấn, các đường dây nóng hoặc trung tâm hỗ trợ tâm lý để được giúp đỡ một cách chuyên nghiệp, khẩn cấp.
PV: Việc chủ quan không can thiệp, theo ông, có thể dẫn đến hậu quả gì?
TS Lê Nguyên Phương: Trước hết, nếu không quan tâm can thiệp kịp thời khi xuất hiện những dấu hiệu của trầm cảm hay rối loạn tâm lý, cá nhân có thể rơi vào tình trạng ngày càng nghiêm trọng, suy giảm khả năng lao động, học tập và chất lượng cuộc sống. Sự bào mòn về tinh thần này còn gây ảnh hưởng đến tương tác gia đình, xã hội, thậm chí làm xấu đi quan hệ hôn nhân hay tình cảm với con cái.
Tiếp theo, trong trường hợp người bệnh không được hỗ trợ, những ý nghĩ tự ti hoặc tiêu cực có thể âm thầm trở nên trầm trọng, đẩy họ đến nguy cơ tự làm hại bản thân. Hành vi tự sát hay toan tính tự sát, là một trong những hậu quả đáng sợ nhất, thường xảy ra khi họ rơi vào bế tắc nhưng không tìm được sự trợ giúp chuyên môn kịp thời.
Cuối cùng, để ngăn chặn kịch bản xấu này, mọi người nên đề cao cảnh giác, tránh chủ quan và quan tâm nhiều hơn đến sức khỏe tinh thần của bản thân cũng như những người xung quanh. Nếu bạn hoặc người thân có biểu hiện mất ngủ, buồn bã kéo dài, có suy nghĩ muốn kết thúc cuộc sống, hãy sớm tìm đến sự giúp đỡ của chuyên gia tâm lý hoặc bác sĩ tâm thần để được thăm khám và hỗ trợ.