Lưu ý khi dùng nhân sâm
Nhân sâm bồi dưỡng cơ thể, làm tăng phát triển cơ thể, tăng khí lực, tăng khả năng lao động trí óc và tay chân, giúp tăng trí nhớ.
Chúng giúp cơ thể tăng khả năng thích nghi với các điều kiện bất lợi của môi trường sống như: nhiệt độ cao, thấp quá, bức xạ, khói độc, bụi bặm… Kích thích miễn dịch, tăng sức đề kháng đối với nhiều loại bệnh tật, giúp cơ thể chống stress.
Nhân sâm tăng chuyển hoá cơ bản, giúp giảm cholesterol trong máu, bổ trợ cho thuốc hạ đường huyết trong điều trị đái tháo đường, bổ trợ cho các liệu pháp chữa trị ung thư, HIV-AIDS, cai nghiện ma tuý…
Theo đông y, nhân sâm có vị ngọt, hơi đắng, tính ôn (ấm) tác dụng đại bổ nguyên khí, ích huyết, sinh tân dịch, ích trí, làm sáng mắt, trừ tà khí, làm chậm lão hoá, tăng tuổi thọ. Thường dùng trong các trường hợp: khí huyết suy hư, cơ thể suy nhược, phế hư sinh ho suyển, tỳ hư sinh tiết tả, vị hư sinh nôn mửa, người mới ốm dậy, người suy nhược thần kinh thường hoảng hốt, bất an. Ngày dùng 2–6g, có khi nhiều hơn (12–20g). Dạng thuốc sắc uống, chưng cách thuỷ hoặc hấp, ngâm rượu, tán bột hoặc ninh với các thực phẩm khác để ăn.
Tuy nhiên, khi sử dụng cần lưu ý: nhân sâm làm tăng cường hoạt động của hệ tuần hoàn và hô hấp, tăng hưng phấn thần kinh, tăng sức lực, tăng khả năng lao động… Cho nên, chỉ sử dụng vào buổi sáng hoặc chiều, không sử dụng vào buổi tối, để cơ thể được nghỉ ngơi tốt hơn.
Những người đang bị bệnh thực chứng, tức là bệnh cấp tính như: cảm sốt phong hàn, cảm mạo phong nhiệt, đau bụng tiêu chảy do trúng thực, do nhiễm thấp nhiệt, sốt xuất huyết, viêm gan cấp, viêm tuỵ cấp, viêm loét dạ dày – tá tràng, bị giãn phế quản, ho ra máu, người bị cao huyết áp, bị bệnh hệ thống miễn dịch (ban đỏ, mụn nhọt, việm khớp dạng thấp, da cứng…), thanh niên hay bị xuất tinh sớm, di tinh, phụ nữ đang mang thai, trẻ em dưới 14 tuổi đều không nên dùng nhân sâm.
Đông y cho rằng, những người có thể trạng âm hư hoả vượng, âm hư nội nhiệt với các triệu chứng: người gầy, da khô, nóng, lòng bàn tay, bàn chân nóng, miệng khô khát nước, trong lòng phiền muộn, bứt rứt, mất ngủ, gò má đỏ, ra mồ hôi trộm, sốt hâm hấp vào buổi chiều, đại tiện táo, tiểu tiện vàng, chất lưỡi đỏ nhạt… thì không nên dùng nhân sâm.
Nhân sâm tăng chuyển hoá cơ bản, giúp giảm cholesterol trong máu, bổ trợ cho thuốc hạ đường huyết trong điều trị đái tháo đường, bổ trợ cho các liệu pháp chữa trị ung thư, HIV-AIDS, cai nghiện ma tuý…
Theo đông y, nhân sâm có vị ngọt, hơi đắng, tính ôn (ấm) tác dụng đại bổ nguyên khí, ích huyết, sinh tân dịch, ích trí, làm sáng mắt, trừ tà khí, làm chậm lão hoá, tăng tuổi thọ. Thường dùng trong các trường hợp: khí huyết suy hư, cơ thể suy nhược, phế hư sinh ho suyển, tỳ hư sinh tiết tả, vị hư sinh nôn mửa, người mới ốm dậy, người suy nhược thần kinh thường hoảng hốt, bất an. Ngày dùng 2–6g, có khi nhiều hơn (12–20g). Dạng thuốc sắc uống, chưng cách thuỷ hoặc hấp, ngâm rượu, tán bột hoặc ninh với các thực phẩm khác để ăn.
Tuy nhiên, khi sử dụng cần lưu ý: nhân sâm làm tăng cường hoạt động của hệ tuần hoàn và hô hấp, tăng hưng phấn thần kinh, tăng sức lực, tăng khả năng lao động… Cho nên, chỉ sử dụng vào buổi sáng hoặc chiều, không sử dụng vào buổi tối, để cơ thể được nghỉ ngơi tốt hơn.
Những người đang bị bệnh thực chứng, tức là bệnh cấp tính như: cảm sốt phong hàn, cảm mạo phong nhiệt, đau bụng tiêu chảy do trúng thực, do nhiễm thấp nhiệt, sốt xuất huyết, viêm gan cấp, viêm tuỵ cấp, viêm loét dạ dày – tá tràng, bị giãn phế quản, ho ra máu, người bị cao huyết áp, bị bệnh hệ thống miễn dịch (ban đỏ, mụn nhọt, việm khớp dạng thấp, da cứng…), thanh niên hay bị xuất tinh sớm, di tinh, phụ nữ đang mang thai, trẻ em dưới 14 tuổi đều không nên dùng nhân sâm.
Đông y cho rằng, những người có thể trạng âm hư hoả vượng, âm hư nội nhiệt với các triệu chứng: người gầy, da khô, nóng, lòng bàn tay, bàn chân nóng, miệng khô khát nước, trong lòng phiền muộn, bứt rứt, mất ngủ, gò má đỏ, ra mồ hôi trộm, sốt hâm hấp vào buổi chiều, đại tiện táo, tiểu tiện vàng, chất lưỡi đỏ nhạt… thì không nên dùng nhân sâm.
Theo SGTT