Hé lộ những mối tình lằng nhằng của Tưởng Giới Thạch
Các tình nhân, thê thiếp của Tưởng Giới Thạch có bao nhiêu, từ trước tới nay từng có nhiều tin đồn khác nhau. Song quan niệm tương đối nhất quán là những phu nhân mang "nhãn hiệu" của Tưởng có bốn người.
Tưởng Giới Thạch (1887 - 1975) là một nhà quân sự, nhà chính trị trong lịch sử Trung Quốc cận đại. Ông không chỉ nổi tiếng là người có tham vọng quyền lực chính trị lớn mà còn rất đào hoa. Cuộc đời ông gắn liền với không ít câu chuyện tình lằng nhằng.
Mao Phúc Mai: Ly hôn bằng một lá thư
Mao Phúc Mai được coi là người vợ đầu tiên của Tưởng Giới Thạch. Ông kết hôn với Phúc Mai năm 14 tuổi theo sự “chỉ đạo” của mẹ. Mao Phúc Mai người cùng làng Phục Hóa (Ninh Ba, tỉnh Chiết Giang), sinh ra trong một gia đình vừa làm làm ruộng, vừa buôn bán nên thuộc dạng khá giả trong làng.
Phúc Mai hơn Tưởng 5 tuổi, lại là người không biết chữ, trong khi đó Tưởng Giới Thạch lúc đó đã đi học được 9 năm. Về cả tuổi tác, tư tưởng hay tình cảm thì cuộc hôn nhân này đều có sự chênh lệch rõ ràng.
Sau 2 năm kết hôn, Tưởng đến Ninh Ba học, có một thời gian ông đưa Phúc Mai đi cùng. Đây được coi là quãng thời gian hạnh phúc nhất của cặp vợ chồng này. Nhưng cuộc sống êm ấm đó không kéo dài được bao lâu. Năm 1905, Tưởng Giới Thạch phải sang Nhật học. Cũng từ đó mà tình cảm của ông với vợ ngày càng lạnh nhạt.
Ngay cả khi con trai Tưởng Kinh Quốc chào đời vào năm 1910, ông cũng không thể cải thiện tình cảm với vợ. Lúc con trai lên 3 tuổi, Tưởng đã đưa một người phụ nữ khác là Diêu Dã Thành từ Thượng Hải về nhà. Đến khi xảy ra sự việc này thì cuộc hôn nhân giữa ông và Phúc Mai chỉ còn trên danh nghĩa.
Khoảng giữa năm 1921, Tưởng Giới Thạch viết một bức thư dài cho anh trai của Phúc Mai rõ quyết tâm ly hôn của mình nhằm chấm dứt cuộc hôn nhân không hạnh phúc đã kéo dài nhiều năm.
Tuy nhiên, đến năm 1927, Tưởng Giới Thạch mới chính thức làm xong thủ tục ly hôn với vợ. Bởi lúc đó ông xác định kết hôn với Tống Mỹ Linh, mà nhà họ Tống đưa ra hai yêu cầu: thứ nhất, Tưởng phải theo Cơ đốc giáo; thứ hai, ông không được phép có hai vợ cùng một lúc.
Trải qua 26 năm làm vợ của Tưởng Giới Thạch, Phúc Mai luôn tỏ ra là người con dâu chu đáo, hiếu thảo với gia đình họ Tưởng nên họ luôn coi cô như con cháu trong nhà, không muốn để Mai rời đi.
Vì vậy, về mặt pháp luật, 2 người đã chính thức ly hôn nhưng cô vẫn sống trong nhà họ Tưởng với tên thực của mình.
Năm 1939, quân Nhật xâm chiếm Trung Quốc, bom rơi xuống nhà họ Tưởng, Mao Phúc Mai trúng bom và qua đời. Khi ấy, bà mới 57 tuổi.
Không chỉ nổi tiếng là người có tham vọng quyền lực chính trị lớn mà Tưởng Giới Thạch còn rất đào hoa (Ảnh: Internet).
Diêu Dã Thành: Con trai là sợi dây gắn kết duy nhất
Người phụ nữ thứ hai trong thiên tình sử của Tưởng Giới Thạch là Diêu Dã Thành. Dã Thành bằng tuổi Tưởng, người Giang Tô, đã có một đời chồng nhưng do chồng cô nghiện ngập nên tình cảm gia đình đã bị sứt mẻ ít nhiều.
Sau khi trở về từ Nhật, Tưởng đã tình cờ gặp Diêu Dã Thành ở Thượng Hải và đường hoàng đưa về quê ra mắt. Lúc ấy, Mao Phúc Mai mới “ngã ngửa” khi biết chồng mình có vợ lẽ.
Có một thời gian gia đình Tưởng đã sinh sống với cả hai nàng dâu khá êm ấm. Đến năm 1919, Tưởng còn đem con trai là Tưởng Vỹ Quốc mới được 3 tuổi đến ở cùng Dã Thành.
Song cũng giống như cuộc hôn nhân đầu, chẳng bao lâu sau, quan hệ giữa Dã Thành và Tưởng xuất hiện rạn nứt. Nguyên nhân do Tưởng Giới Thạch cực ghét bản chất cờ bạc đã ngấm vào máu vợ. Ngoài ra, Dã Thành cũng không còn chu đáo với ông như trước kia nữa khiến ông đau lòng. Tưởng cho rằng tất cả những tật xấu của vợ cũng chỉ vì thói cờ bạc kia mà ra. Chính vì lẽ đó, ông đã nghĩ đến chuyện chấm dứt mối quan hệ với Diêu Dã Thành.
Mặc dù đã chán vợ nhưng tình cảm với người con trai Tưởng Vỹ Quốc chính là sợ dây gắn kết duy nhất giữa hai người. Người ta kể rằng, chỉ trong vòng hơn nửa năm mà Tưởng đã viết cho vợ đến 4 bức thư. Trong đó, bức thư nào cũng nhắc nhở vợ chăm sóc con trai chu đáo, nhưng ông không có lời nào nhắc đến chuyện tình cảm của mình.
Mãi đến sau này khi Tưởng quyết định kết hôn với Tống Mỹ Linh thì Diêu Dã Thành mới đưa Tưởng Vỹ Quốc rời khỏi nhà họ Tưởng trở về Tô Châu.
Cuối cùng, Diêu Dã Thành ra đi ở tuổi 79.
Trần Khiết Như: Yêu từ cái nhìn đầu tiên
Năm 1919, mẹ của Tưởng Giới Thạch lâm bệnh nặng. Lúc đó, tình cảm của ông với cả hai người vợ Mao Phúc Mai và Diêu Dã Thành đều đến giai đoạn nhạt nhòa. Đúng thời điểm này, Tưởng đã quen Trần Khiết Như, người nhà của một cán bộ trong Quốc dân Đảng.
Khi ấy, Trần Khiết Như mới 13 tuổi, người ở Tô Châu. Đó là một cô gái vừa xinh đẹp, thông minh lại học hành đàng hoàng. Tưởng đã đem lòng yêu Khiết Như ngay từ cái nhìn đầu tiên. Nhưng mẹ của Trần Khiết Như thấy con gái còn quá nhỏ nên không bằng lòng cho Tưởng theo đuổi.
Dẫu vậy, Tưởng Giới Thạch không hề bỏ cuộc. Ông đã viết thư tình cho Trần Khiết Như với những lời lẽ vô cùng thắm thiết: “Ngày nào anh cũng nghĩ về em, coi em là nguồn an ủi, động viên… Em yêu đất nước, chính là em đã mang lại hạnh phúc cho một người cách mạng tận tâm vì đất nước đó. Anh sẽ để trái tim mình trong lòng em. Hãy nói cho anh biết em sẽ rộng lòng đến với anh, và sớm được nói chuyện với em. Hãy để anh nhìn thấy em trong ngày hôm nay!”.
Không lâu sau, cha của Trần Khiết Như qua đời, Tưởng đã giúp đỡ, chăm sóc gia đình cô hết sức tận tình, nhờ đó mà cuối cùng ông cũng lấy được cảm tình của mẹ Trần Khiết Như.
Thêm vào đó, Tưởng cũng hứa từ bỏ quan hệ với Mao Phúc Mai và Diêu Dã Thành nên mới thuyết phục được nhà họ Trần gả con gái cho mình.
Sau khi kết hôn, Trần Khiết Như không thể sinh con, nên ông đã mang Tưởng Kinh Quốc đến Thượng Hải để Khiết Như chăm sóc. Khi Tưởng Giới Thạch đảm nhận chức Hiệu trưởng Học viện Quân sự, Trần Khiết Như được coi là thư ký, thay ông xử lý và bảo lưu thư tín, tài liệu thông thường. Đồng thời, người phụ nữ này còn dốc toàn lực phò tá chồng tham gia cách mạng.
Song, thời kỳ mặn nồng của hai người kéo dài cũng chẳng được bao lâu. Năm 1926, thông qua các thủ đoạn chính trị, Tưởng Giới Thạch đã cướp đoạt quyền lực chính trị và quân sự của Quốc dân Đảng. Sự thay đổi địa vị và bành trướng tham vọng quyền lực khiến Tưởng nghĩ rằng xuất thân bình thường của Trần Khiết Như không thể trợ giúp mình thăng tiến trong tương lai.
Tưởng Giới Thạch đã bàn tính với Khiết Như để cô sang Mỹ du học nhằm nâng cao tầm hiểu biết, giúp chồng trong công việc sau này. Nhưng thực ra đây chỉ là âm mưu của ông để sớm được kết hôn với Tống Mỹ Linh.
Sau khi Khiết Như ra đi, Tưởng đã đăng một thông cáo trên báo, rũ bỏ toàn bộ quan hệ với những người vợ trước của mình, bao gồm cả Trần Khiết Như.
Năm 1971, Trần Khiết Như qua đời ở tuổi 65 trong sự cô đơn.
Tưởng Giới Thạch và phu nhân Tống Mỹ Linh (Ảnh: Internet).
Tống Mỹ Linh: Cuộc hôn nhân vì mục đích chính trị
Tưởng Giới Thạch và Tống Mỹ Linh gặp nhau lần đầu tiên năm 1922. Tống Mỹ Linh là em gái của Tống Khánh Linh – vợ của Tôn Trung Sơn. Ngay khi vừa gặp nhau, Tưởng Giới Thạch đã bị cuốn hút bởi diện mạo và phong thái của cô. Sau đó, ông đã nhờ Tôn Trung Sơn làm thuyết khách để kết đôi cho hai người nhưng bị nhà họ Tống phản đối.
Khi Tôn Trung Sơn qua đời, địa vị của Tưởng Giới Thạch nhanh chóng được nâng cao trong Quốc dân Đảng, vì thế quan hệ của ông với Tống Mỹ Linh cũng dần có “lối thoát”. Trong một bức thư gửi Tưởng Giới Thạch đầu năm 1927, Tống Mỹ Linh đã gọi ông là “anh trai thân yêu”.
Cũng trong thời điểm này, quân cách mạng Trung Quốc phát hiện ý đồ phản bội cách mạng của Tưởng Giới Thạch. Họ bắt đầu tước bỏ bớt quyền lực của ông. Tưởng Giới Thạch nhận thấy tình hình không ổn, nảy ra ý định kết hôn với Tống Mỹ Linh nhằm tranh thủ sự ủng hộ của nhà họ Tống.
Giữa năm 1927, Tưởng Giới Thạch tạo nên một cuộc chính biến phản cách mạng, bị Trung ương Quốc dân Đảng Vũ Hán khai trừ khỏi Đảng, sau đó lại chịu thất bại trong cuộc nổi dậy Đông chinh dẹp Tưởng. Rơi vào bước đường cùng, Tưởng Giới Thạch viết thư cho Tống Mỹ Linh để bày tỏ sự tuyệt vọng khi mất quyền lực và mong muốn được lấy cô làm vợ.
Trước bức thư cầu hôn dạt dào tình cảm của Tưởng, Tống Mỹ Linh đã vô cùng cảm động và đồng ý kết hôn. Ngày 1/12/1927, Tưởng Giới Thạch và Tống Mỹ Linh làm lễ cưới. Sau 40 ngày kết hôn, Tưởng tuyên bố Tống Mỹ trở thành đệ nhất phu nhân trong lòng ông và hai người sống đến cuối đời.
Năm 1975, Tưởng Giới Thạch qua đời. Sau đó, Tống Mỹ Linh cũng chuyển sang Mỹ sống những tháng ngày cuối đời và bà mất năm 2003, thọ 106 tuổi.
Mao Phúc Mai: Ly hôn bằng một lá thư
Mao Phúc Mai được coi là người vợ đầu tiên của Tưởng Giới Thạch. Ông kết hôn với Phúc Mai năm 14 tuổi theo sự “chỉ đạo” của mẹ. Mao Phúc Mai người cùng làng Phục Hóa (Ninh Ba, tỉnh Chiết Giang), sinh ra trong một gia đình vừa làm làm ruộng, vừa buôn bán nên thuộc dạng khá giả trong làng.
Phúc Mai hơn Tưởng 5 tuổi, lại là người không biết chữ, trong khi đó Tưởng Giới Thạch lúc đó đã đi học được 9 năm. Về cả tuổi tác, tư tưởng hay tình cảm thì cuộc hôn nhân này đều có sự chênh lệch rõ ràng.
Sau 2 năm kết hôn, Tưởng đến Ninh Ba học, có một thời gian ông đưa Phúc Mai đi cùng. Đây được coi là quãng thời gian hạnh phúc nhất của cặp vợ chồng này. Nhưng cuộc sống êm ấm đó không kéo dài được bao lâu. Năm 1905, Tưởng Giới Thạch phải sang Nhật học. Cũng từ đó mà tình cảm của ông với vợ ngày càng lạnh nhạt.
Ngay cả khi con trai Tưởng Kinh Quốc chào đời vào năm 1910, ông cũng không thể cải thiện tình cảm với vợ. Lúc con trai lên 3 tuổi, Tưởng đã đưa một người phụ nữ khác là Diêu Dã Thành từ Thượng Hải về nhà. Đến khi xảy ra sự việc này thì cuộc hôn nhân giữa ông và Phúc Mai chỉ còn trên danh nghĩa.
Khoảng giữa năm 1921, Tưởng Giới Thạch viết một bức thư dài cho anh trai của Phúc Mai rõ quyết tâm ly hôn của mình nhằm chấm dứt cuộc hôn nhân không hạnh phúc đã kéo dài nhiều năm.
Tuy nhiên, đến năm 1927, Tưởng Giới Thạch mới chính thức làm xong thủ tục ly hôn với vợ. Bởi lúc đó ông xác định kết hôn với Tống Mỹ Linh, mà nhà họ Tống đưa ra hai yêu cầu: thứ nhất, Tưởng phải theo Cơ đốc giáo; thứ hai, ông không được phép có hai vợ cùng một lúc.
Trải qua 26 năm làm vợ của Tưởng Giới Thạch, Phúc Mai luôn tỏ ra là người con dâu chu đáo, hiếu thảo với gia đình họ Tưởng nên họ luôn coi cô như con cháu trong nhà, không muốn để Mai rời đi.
Vì vậy, về mặt pháp luật, 2 người đã chính thức ly hôn nhưng cô vẫn sống trong nhà họ Tưởng với tên thực của mình.
Năm 1939, quân Nhật xâm chiếm Trung Quốc, bom rơi xuống nhà họ Tưởng, Mao Phúc Mai trúng bom và qua đời. Khi ấy, bà mới 57 tuổi.
Không chỉ nổi tiếng là người có tham vọng quyền lực chính trị lớn mà Tưởng Giới Thạch còn rất đào hoa (Ảnh: Internet).
Diêu Dã Thành: Con trai là sợi dây gắn kết duy nhất
Người phụ nữ thứ hai trong thiên tình sử của Tưởng Giới Thạch là Diêu Dã Thành. Dã Thành bằng tuổi Tưởng, người Giang Tô, đã có một đời chồng nhưng do chồng cô nghiện ngập nên tình cảm gia đình đã bị sứt mẻ ít nhiều.
Sau khi trở về từ Nhật, Tưởng đã tình cờ gặp Diêu Dã Thành ở Thượng Hải và đường hoàng đưa về quê ra mắt. Lúc ấy, Mao Phúc Mai mới “ngã ngửa” khi biết chồng mình có vợ lẽ.
Có một thời gian gia đình Tưởng đã sinh sống với cả hai nàng dâu khá êm ấm. Đến năm 1919, Tưởng còn đem con trai là Tưởng Vỹ Quốc mới được 3 tuổi đến ở cùng Dã Thành.
Song cũng giống như cuộc hôn nhân đầu, chẳng bao lâu sau, quan hệ giữa Dã Thành và Tưởng xuất hiện rạn nứt. Nguyên nhân do Tưởng Giới Thạch cực ghét bản chất cờ bạc đã ngấm vào máu vợ. Ngoài ra, Dã Thành cũng không còn chu đáo với ông như trước kia nữa khiến ông đau lòng. Tưởng cho rằng tất cả những tật xấu của vợ cũng chỉ vì thói cờ bạc kia mà ra. Chính vì lẽ đó, ông đã nghĩ đến chuyện chấm dứt mối quan hệ với Diêu Dã Thành.
Mặc dù đã chán vợ nhưng tình cảm với người con trai Tưởng Vỹ Quốc chính là sợ dây gắn kết duy nhất giữa hai người. Người ta kể rằng, chỉ trong vòng hơn nửa năm mà Tưởng đã viết cho vợ đến 4 bức thư. Trong đó, bức thư nào cũng nhắc nhở vợ chăm sóc con trai chu đáo, nhưng ông không có lời nào nhắc đến chuyện tình cảm của mình.
Mãi đến sau này khi Tưởng quyết định kết hôn với Tống Mỹ Linh thì Diêu Dã Thành mới đưa Tưởng Vỹ Quốc rời khỏi nhà họ Tưởng trở về Tô Châu.
Cuối cùng, Diêu Dã Thành ra đi ở tuổi 79.
Trần Khiết Như: Yêu từ cái nhìn đầu tiên
Năm 1919, mẹ của Tưởng Giới Thạch lâm bệnh nặng. Lúc đó, tình cảm của ông với cả hai người vợ Mao Phúc Mai và Diêu Dã Thành đều đến giai đoạn nhạt nhòa. Đúng thời điểm này, Tưởng đã quen Trần Khiết Như, người nhà của một cán bộ trong Quốc dân Đảng.
Khi ấy, Trần Khiết Như mới 13 tuổi, người ở Tô Châu. Đó là một cô gái vừa xinh đẹp, thông minh lại học hành đàng hoàng. Tưởng đã đem lòng yêu Khiết Như ngay từ cái nhìn đầu tiên. Nhưng mẹ của Trần Khiết Như thấy con gái còn quá nhỏ nên không bằng lòng cho Tưởng theo đuổi.
Dẫu vậy, Tưởng Giới Thạch không hề bỏ cuộc. Ông đã viết thư tình cho Trần Khiết Như với những lời lẽ vô cùng thắm thiết: “Ngày nào anh cũng nghĩ về em, coi em là nguồn an ủi, động viên… Em yêu đất nước, chính là em đã mang lại hạnh phúc cho một người cách mạng tận tâm vì đất nước đó. Anh sẽ để trái tim mình trong lòng em. Hãy nói cho anh biết em sẽ rộng lòng đến với anh, và sớm được nói chuyện với em. Hãy để anh nhìn thấy em trong ngày hôm nay!”.
Không lâu sau, cha của Trần Khiết Như qua đời, Tưởng đã giúp đỡ, chăm sóc gia đình cô hết sức tận tình, nhờ đó mà cuối cùng ông cũng lấy được cảm tình của mẹ Trần Khiết Như.
Thêm vào đó, Tưởng cũng hứa từ bỏ quan hệ với Mao Phúc Mai và Diêu Dã Thành nên mới thuyết phục được nhà họ Trần gả con gái cho mình.
Sau khi kết hôn, Trần Khiết Như không thể sinh con, nên ông đã mang Tưởng Kinh Quốc đến Thượng Hải để Khiết Như chăm sóc. Khi Tưởng Giới Thạch đảm nhận chức Hiệu trưởng Học viện Quân sự, Trần Khiết Như được coi là thư ký, thay ông xử lý và bảo lưu thư tín, tài liệu thông thường. Đồng thời, người phụ nữ này còn dốc toàn lực phò tá chồng tham gia cách mạng.
Song, thời kỳ mặn nồng của hai người kéo dài cũng chẳng được bao lâu. Năm 1926, thông qua các thủ đoạn chính trị, Tưởng Giới Thạch đã cướp đoạt quyền lực chính trị và quân sự của Quốc dân Đảng. Sự thay đổi địa vị và bành trướng tham vọng quyền lực khiến Tưởng nghĩ rằng xuất thân bình thường của Trần Khiết Như không thể trợ giúp mình thăng tiến trong tương lai.
Tưởng Giới Thạch đã bàn tính với Khiết Như để cô sang Mỹ du học nhằm nâng cao tầm hiểu biết, giúp chồng trong công việc sau này. Nhưng thực ra đây chỉ là âm mưu của ông để sớm được kết hôn với Tống Mỹ Linh.
Sau khi Khiết Như ra đi, Tưởng đã đăng một thông cáo trên báo, rũ bỏ toàn bộ quan hệ với những người vợ trước của mình, bao gồm cả Trần Khiết Như.
Năm 1971, Trần Khiết Như qua đời ở tuổi 65 trong sự cô đơn.
Tưởng Giới Thạch và phu nhân Tống Mỹ Linh (Ảnh: Internet).
Tưởng Giới Thạch và Tống Mỹ Linh gặp nhau lần đầu tiên năm 1922. Tống Mỹ Linh là em gái của Tống Khánh Linh – vợ của Tôn Trung Sơn. Ngay khi vừa gặp nhau, Tưởng Giới Thạch đã bị cuốn hút bởi diện mạo và phong thái của cô. Sau đó, ông đã nhờ Tôn Trung Sơn làm thuyết khách để kết đôi cho hai người nhưng bị nhà họ Tống phản đối.
Khi Tôn Trung Sơn qua đời, địa vị của Tưởng Giới Thạch nhanh chóng được nâng cao trong Quốc dân Đảng, vì thế quan hệ của ông với Tống Mỹ Linh cũng dần có “lối thoát”. Trong một bức thư gửi Tưởng Giới Thạch đầu năm 1927, Tống Mỹ Linh đã gọi ông là “anh trai thân yêu”.
Cũng trong thời điểm này, quân cách mạng Trung Quốc phát hiện ý đồ phản bội cách mạng của Tưởng Giới Thạch. Họ bắt đầu tước bỏ bớt quyền lực của ông. Tưởng Giới Thạch nhận thấy tình hình không ổn, nảy ra ý định kết hôn với Tống Mỹ Linh nhằm tranh thủ sự ủng hộ của nhà họ Tống.
Giữa năm 1927, Tưởng Giới Thạch tạo nên một cuộc chính biến phản cách mạng, bị Trung ương Quốc dân Đảng Vũ Hán khai trừ khỏi Đảng, sau đó lại chịu thất bại trong cuộc nổi dậy Đông chinh dẹp Tưởng. Rơi vào bước đường cùng, Tưởng Giới Thạch viết thư cho Tống Mỹ Linh để bày tỏ sự tuyệt vọng khi mất quyền lực và mong muốn được lấy cô làm vợ.
Trước bức thư cầu hôn dạt dào tình cảm của Tưởng, Tống Mỹ Linh đã vô cùng cảm động và đồng ý kết hôn. Ngày 1/12/1927, Tưởng Giới Thạch và Tống Mỹ Linh làm lễ cưới. Sau 40 ngày kết hôn, Tưởng tuyên bố Tống Mỹ trở thành đệ nhất phu nhân trong lòng ông và hai người sống đến cuối đời.
Năm 1975, Tưởng Giới Thạch qua đời. Sau đó, Tống Mỹ Linh cũng chuyển sang Mỹ sống những tháng ngày cuối đời và bà mất năm 2003, thọ 106 tuổi.