Đề xuất giá vé đường sắt tốc độ cao Bắc - Nam
Theo đề xuất, giá vé đường sắt tốc độ cao dự kiến bằng khoảng 75% giá vé máy bay trong điều kiện bình thường, được chia làm 3 mức; phù hợp với khả năng chi trả của người dân để khuyến khích người dân tiếp cận dịch vụ đường sắt tốc độ cao.
Trung bình 67km sẽ có một ga
Chính phủ vừa có tờ trình dự thảo gửi Quốc hội về báo cáo nghiên cứu tiền khả thi dự án đường sắt tốc độ cao trên trục Bắc - Nam. Theo đó, tuyến đường sắt tốc độ cao Bắc Nam sẽ có chiều dài khoảng 1.545km, từ ga Ngọc Hồi (Hà Nội) đến ga Thủ Thiêm (TPHCM), đường đôi, khổ 1.435 mm.
Dự án đi qua địa phận 20 tỉnh, thành phố gồm: Hà Nội, Hà Nam, Nam Định, Ninh Bình, Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên - Huế, Đà Nẵng, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa, Ninh Thuận, Bình Thuận, Đồng Nai, TPHCM.
Tuyến đường sắt tốc độ cao được bố trí 23 ga hành khách với khoảng cách 67km/ga, đặt tại gần khu vực trung tâm kinh tế, chính trị các địa phương.
Theo Chính phủ, hiện trong quy hoạch Hà Nội và TPHCM đã báo cáo và được Bộ Chính trị cơ bản thống nhất, mỗi địa phương sẽ bố trí 1 ga. Riêng các tỉnh Hà Tĩnh, Bình Định, Bình Thuận sẽ bố trí 2 ga. Điều này đảm bảo chạy tàu với tốc độ khai thác tối đa (320 km/h) chiếm 70-80% chiều dài giữa hai ga dừng (cự ly tăng tốc khoảng 7,2 km; cự ly giảm tốc khoảng 9,5 km).
Ngoài ra, để bảo đảm phục vụ quốc phòng, an ninh, vận chuyển hàng hóa khi có nhu cầu, trên tuyến bố trí 5 ga hàng tại các đầu mối hàng hóa lớn.
Đặc biệt, trên tuyến dự kiến sẽ xây dựng 5 depot phục vụ khu tập kết, sửa chữa, bảo dưỡng tàu khách (tại Hà Nội, Nghệ An, Đà Nẵng, Khánh Hòa và TPHCM) và 4 depot phục vụ sửa chữa, bảo dưỡng tàu hàng (tại Hà Tĩnh, Quảng Nam, Khánh Hòa và Đồng Nai).
Giá vé bằng 75% giá vé máy bay mức rẻ
Để rút ngắn thời gian thực hiện và huy động tối đa nguồn lực, các nhà thầu trong nước tham thực hiện dự án, Chính phủ dự kiến phân chia thành 4 dự án thành phần và đồng thời triển khai.
Cụ thể, dự án thành phần 1 gồm đoạn từ ga Ngọc Hồi (TP Hà Nội) đến ga Vinh (tỉnh Nghệ An) có tổng chiều dài khoảng 281 km; dự án thành phần 2 đoạn từ ga Vinh (tỉnh Nghệ An) đến ga Đà Nẵng (TP Đà Nẵng) có tổng chiều dài khoảng 420 km.
Dự án thành phần 3 đoạn từ ga Đà Nẵng (TP Đà Nẵng) đến ga Diên Khánh (tỉnh Khánh Hòa) có tổng chiều dài khoảng 480 km; dự án thành phần 4 đoạn từ ga Diên Khánh (tỉnh Khánh Hòa) đến ga Thủ Thiêm (TPHCM) có tổng chiều dài khoảng 360 km.
Nếu được Quốc hội thông qua chủ trương đầu tư trong kỳ họp Quốc hội vào tháng 10 sắp tới, dự án đặt mục tiêu triển khai giải phóng mặt bằng toàn tuyến và khởi công các dự án thành phần cuối năm 2027; phấn đấu hoàn thành toàn tuyến năm 2035 với tổng mức đầu tư dự án khoảng 1,7 triệu tỷ đồng (khoảng 67,3 tỷ USD).
Cụ thể, ước tính các hạng mục chi phí bao gồm chi phí bồi thường, hỗ trợ và tái định cư gần 150.000 tỷ đồng; chi phí xây dựng và thiết bị khoảng 974.500 tỷ đồng; chi phí phương tiện đầu máy toa xe khoảng 110.376 tỷ đồng; chi phí quản lý dự án, tư vấn và chi phí khác khoảng 162.731 tỷ đồng; chi phí dự phòng khoảng 260.783 tỷ đồng; chi phí lãi vay trong thời gian xây dựng khoảng 55.438 tỷ đồng.
“Trên tuyến có khoảng 60% kết cấu là cầu, 10% là hầm và 30% là nền đất nên suất đầu tư dự án khoảng 43,7 triệu USD/km. Đây là mức trung bình so với một số tuyến đường sắt tốc độ cao trên thế giới có cùng dải tốc độ khai thác khi quy đổi về thời điểm năm 2024”, tờ trình của Chính phủ nêu.
Một trong những vấn đề quan tâm của người dân là giá vé đường sắt tốc độ cao, theo tính toán của cơ quan soạn thảo, dự kiến bằng khoảng 75% giá vé máy bay giá rẻ trong điều kiện bình thường. Để phù hợp với khả năng chi trả, thu hút hành khách, vé đường sắt tốc độ cao chia làm 3 mức giá tương ứng với các đối tượng, mức độ tiện nghi khác nhau.
“Giá vé đề xuất không có sự khác biệt lớn đối với các nước có điều kiện tương đồng với Việt Nam hoặc với tuyến đường sắt tốc độ cao có chiều dài lớn, thấp hơn hàng không, cao hơn đường bộ nhưng chất lượng dịch vụ cao hơn, tiết kiệm thời gian, an toàn, tiện nghi để khuyến khích người dân tiếp cận dịch vụ đường sắt tốc độ cao”, theo tờ trình.
Bộ Tài chính cho biết, khi đầu tư tuyến đường sắt tốc độ cao, giai đoạn đến năm 2030 cả 3 tiêu chí: Nợ công, nợ chính phủ, nợ nước ngoài của Việt Nam vẫn thấp hơn mức cho phép. Theo đó, nợ công lớn nhất là 44% so với mức cho phép 60%; nợ Chính phủ lớn nhất là 43% so với cho phép 50%; nợ nước ngoài lớn nhất là 45% so với mức cho phép 50%.
Giai đoạn sau năm 2030 với các chỉ tiêu tăng trưởng, an toàn nợ công cho thấy dự án đáp ứng chỉ tiêu nợ công; các chỉ tiêu nợ chính phủ, nợ nước ngoài của quốc gia, bội chi tăng nhẹ; nghĩa vụ trả nợ trực tiếp tăng nhưng không nhiều so với kịch bản không đầu tư.
Theo Chính phủ, trong thời gian xây dựng, tính toán cho thấy góp phần tăng GDP bình quân cả nước khoảng 0,97 điểm phần trăm/năm so với kịch bản không đầu tư dự án. Cùng với đó, khai thác thương mại dự kiến thu được khoảng 22 tỷ USD và chưa tính đến phần chi phí đầu tư phương tiện, thiết bị sẽ do Tổng công ty Đường sắt Việt Nam chịu trách nhiệm trả nợ. Các yếu tố này sẽ góp phần cải thiện toàn bộ các chỉ tiêu tài chính vĩ mô.
Đặc biệt, sau khi đưa đường sắt tốc độ cao vào khai thác sẽ tạo động lực phát triển các ngành, lĩnh vực, các vùng kinh tế, tạo tiền đề thúc đẩy phát triển đột phá kinh tế - xã hội cả nước.