Nghe bà mẹ này kể chuyện trên truyền hình, mới hiểu tại sao có những đứa trẻ lớn lên lệch lạc về tâm lý
Bạn có giống bà mẹ này?
Gần đây, trong 1 chương trình tạp kĩ, cách dạy con của một bà mẹ Trung Quốc đã gây ra nhiều tranh cãi.
Một buổi tối, bé gái 4 tuổi Tiểu Đào học một bài tập học thuộc lòng nhưng mất rất nhiều thời gian vẫn không thể nhớ được. Người mẹ theo chủ nghĩa hoàn hảo của bé, trong lúc kèm con đã không giữ nổi cảm xúc và sụp đổ. Vì vậy, cô tìm cách làm tổn thương chính mình để “ràng buộc” con, dùng “cảm giác tội lỗi” buộc con phải thương mẹ.
Mẹ của Tiểu Đào đã tự đánh mình để khiến con “cảm thấy có lỗi”: “Không còn cách nào khác nên tôi tự đánh mình. Nét mặt của Tiểu Đào lập tức hoảng sợ…”.

Mẹ của Tiểu Đào đã tự đánh mình để khiến con “cảm thấy có lỗi”: “Không còn cách nào khác nên tôi tự đánh mình.
Các quan sát viên tại trường quay đều cho rằng kiểu giáo dục này gây áp lực tâm lý lớn cho trẻ. Phương pháp kết hợp giữa cảm giác tội lỗi và tự làm hại bản thân này đã “trói buộc” bé về mặt cảm xúc: vừa phải chịu đựng cảm giác thất bại vì không làm xong bài, vừa phải gánh thêm nỗi áy náy vì “khiến mẹ bị thương”.
Câu chuyện của Tiểu Đào khiến nhiều cư dân mạng đồng cảm. Giáo dục bằng cách tạo cảm giác tội lỗi không hề hiếm, rất nhiều người lớn lên với những câu nói như vậy.
“Giáo dục kiểu gây tội lỗi” ảnh hưởng đến trẻ như thế nào?
Trong giáo dục truyền thống châu Á, nhiều cha mẹ quen với việc “tự cảm động” và “tự hy sinh”. “Cha mẹ kiếm tiền không dễ, nuôi con ăn học, còn bản thân thì chẳng dám mua gì”. Những câu này nghe quá quen thuộc.
Ví dụ, con muốn ăn một miếng bít-tết, cha mẹ sẽ kể lể rằng họ vất vả, đồng tiền kiếm được không dễ, một bữa như vậy bằng cả ngày công con phải biết điều, phải biết thương cha mẹ… Một mặt nhấn mạnh sự cực khổ của mình, mặt khác liên tục khiến con cảm thấy có lỗi.
Cuối cùng, cha mẹ sẽ giả vờ “hy sinh” mua cho con. Nhưng dù miếng bít-tết có ngon thế nào, cảm giác trong lòng con cũng không còn trọn vẹn. Đáng sợ hơn sự “hy sinh vật chất” của cha mẹ, là sự bế tắc tinh thần mà họ tạo ra cho con.
Có rất nhiều cha mẹ từng dùng kiểu giáo dục gây tội lỗi: “Mẹ dành hết thời gian sau giờ làm cho con mà con học còn chẳng xong!”; “Bố mẹ cho con mọi thứ tốt nhất, con học như vậy có xứng không?”; “Tất cả là vì con. Nếu không có con thì bố mẹ đã ly hôn rồi. Con không thể ngoan hơn sao?”.
Giáo dục kiểu này chính là việc cha mẹ chủ động khơi dậy cảm giác tội lỗi ở trẻ, với hy vọng trẻ biết ơn, biết trả lại, biết cố gắng hơn.
Nhưng những lời làm tổn thương đó: người nói vô tâm, người nghe thì đau trong lòng. Trong thời gian ngắn, tội lỗi có thể khiến trẻ chịu học hơn bởi trẻ muốn thoát khỏi cảm giác khó chịu này cha mẹ sẽ tưởng rằng “cách dạy đã hiệu quả”.
Nhưng về lâu dài, tội lỗi không mang lại lợi ích thực chất nào. Nó chỉ khiến trẻ áp lực nặng nề, cảm thấy bản thân vô dụng và tự ti.
Đối với trẻ, tình trạng này giống như: “Sau lưng con chẳng có ai, chỉ có gánh nặng chồng chất.” Khi “gói tội lỗi” đè lên người trẻ, điều chúng cảm nhận là tội lỗi, và sự mất mát cảm giác an toàn.
Giáo dục kiểu gây tội lỗi: Thực chất là một dạng “tống tình” cảm xúc
Trong tâm lý học, tạo tội lỗi để kiểm soát trẻ được xem là một dạng “khống chế cảm xúc”. Nhà tâm lý Susan Forward từng định nghĩa “kiểm soát nhân danh tình yêu” chính là tống tình cảm xúc.
Nỗi sợ, trách nhiệm và cảm giác tội lỗi là ba cảm xúc phổ biến nhất ở người bị điều khiển. Những bậc cha mẹ mang tính tự làm khổ bản thân thường dùng ba cảm xúc này để thao túng cảm xúc và hành vi của trẻ.
Kết quả là, trẻ lớn lên trong kiểu giáo dục này thường trở thành người thích “lấy lòng”, sống để làm vừa lòng người khác – không phải vì muốn, mà vì sợ cảm giác tội lỗi.
Trong bộ phim Nhật được chấm 9.4 trên Douban “Những Ngày Thảnh Thơi Bình Lặng”, nhân vật nữ chính Tiểu Nại chính là một cô gái sống để làm hài lòng người khác.
Dù là đồng nghiệp, bạn bè hay bạn trai, cô ấy luôn vô thức hy sinh bản thân: Đồng nghiệp mắc lỗi, chỉ cần một ánh mắt, cô lập tức đứng ra nhận thay. Kẹt xe khi đi biển, cô vội vàng nhận lỗi vì chính cô đề nghị đi chơi. Mang cơm theo nhưng đồng nghiệp rủ ăn nhà hàng đắt tiền, dù tiếc tiền cô vẫn cố gắng đi cùng.
…
Tiểu Nại lớn lên không có cha, chỉ có mẹ nuôi dưỡng. Cách mẹ đối xử với cô đã định hình luôn cách cô nhìn thế giới. Nhìn vào tuổi thơ của cô, bạn sẽ hiểu vì sao cô trở thành người thích lấy lòng bởi cô luôn sống trong cảm giác tội lỗi.
Mẹ cô kỳ vọng rất cao, thường bắt cô làm những việc vượt quá khả năng của tuổi nhỏ. Tiểu Nại có chứng sợ lỗ nhỏ, thấy ngô bày dày đặc liền sợ, nhưng không được tỏ ra không thích nếu không mẹ sẽ nổi giận, ném cả bàn ngô đi và mắng cô lãng phí.
Dù đã 28 tuổi, Tiểu Nại vẫn sống trong bóng tối tâm lý của mẹ. Mẹ cô luôn khiến cô sống trong sợ hãi, tội lỗi và tự trách, không có cảm giác an toàn, nhưng cũng không dám phản kháng.
Mẹ kiên quyết đòi sửa nhà và bắt cô đưa tiền “hiếu thuận”. Trong khi Tiểu Nại đang gom tiền mở tiệm giặt ủi, cô mong mẹ đợi nhưng mẹ nói:
“Không sao, mẹ sẽ cúi đầu vay tiền khắp nơi. Dù phải đánh đổi mạng sống để đi làm trả nợ”.
Nghe vậy, Tiểu Nại chìm trong tội lỗi, trao hết số tiền tích góp bấy lâu cho mẹ.
Trong lần dẫn bạn trai về ra mắt, mẹ lại nói cô từ nhỏ đã vô dụng, chưa bao giờ làm mẹ hài lòng, ngay cả chọn chồng cũng “tệ đúng như dự đoán”.
Cuối cùng, Tiểu Nại nhận ra: Cô thật sự không thích mẹ vì mẹ luôn khiến cô cảm thấy tội lỗi.
Mẹ dùng cảm xúc để “trói buộc” cô. Khi còn nhỏ, cô phục tùng vô điều kiện; lớn lên, cô tiếp tục phục tùng người khác trở thành người lấy lòng, từ trong thói quen.
Những lời chỉ trích nặng nề nhất thường đến từ chính bản thân mình
Trong câu chuyện của Tiểu Nại, sự thao túng và đe dọa của mẹ đều diễn ra lặng lẽ, thậm chí được bao bọc bởi thứ gọi là “tình yêu”. Nhưng khi tình yêu biến thành kiểm soát, nó dần trở thành lời đe dọa, rồi phát triển thành tội lỗi, ám ảnh và sợ hãi.
“Phản sầu”, tức là lặp đi lặp lại những ký ức đau buồn không thể thay đổi khiến nỗi đau được tua lại liên tục mà không thể thoát ra.
Tác động của giáo dục tạo tội lỗi lên trẻ rất giống với phản sầu trong trầm cảm: Nó hình thành dần dần qua giao tiếp, quan hệ cha mẹ con cái và trở thành hệ thống nhận thức của trẻ. Những đứa trẻ chìm trong tội lỗi và tự trách thường có chung kiểu giao tiếp với cha mẹ.
Bản chất của giáo dục tạo tội lỗi là khiến trẻ liên tục tự trách, tự phủ nhận bản thân. Nguồn gốc có thể là cha mẹ hoặc thầy cô nghiêm khắc, nhưng tiếng nói chỉ trích nặng nề nhất lại đến từ chính đứa trẻ.
Những ảnh hưởng tiêu cực tích lũy giống như một loại virus mãn tính, từ môi trường tuổi thơ, tương tác gia đình, dần lan sang cuộc sống trưởng thành và các mối quan hệ của trẻ.
Như Tiểu Nại, bị chỉ trích, bị bạo lực ngôn ngữ và bị bỏ rơi về mặt cảm xúc trong thời gian dài, cô đã nội hóa hết những điều tiêu cực thành “lỗi của mình”. Ngay cả khi đã rời xa mẹ, người trút mọi tội lỗi lên cô Tiểu Nại vẫn không thể thoát khỏi sự tự chỉ trích và thói quen lấy lòng người khác.
Giáo dục kiểu gây tội lỗi không phải là giáo dục. Nó là sự kỳ vọng méo mó và áp lực tâm lý biến tướng, có thể định hình cả đời một đứa trẻ.
Cha mẹ và con cái vốn có sự gắn bó tự nhiên, nhiều hình thức giáo dục dựa trên sự gắn bó ấy giúp trẻ hiểu đúng, sai. Nhưng nếu cha mẹ lạm dụng sự gắn bó đó – dùng tội lỗi buộc trẻ phục tùng, bắt trẻ thực hiện ý nguyện của mình sự gắn bó sẽ biến thành kiểm soát cảm xúc, gây hại cho sự phát triển của trẻ.
Trong quá trình nuôi dưỡng, cha mẹ cần chống lại sự nóng vội và tâm lý “muốn kết quả ngay”, trở về đúng với bản chất của giáo dục: Làm hậu phương vững chắc cho con, chứ không phải một người thầy nghiêm khắc áp đặt.
Hãy nói với con: “Phía sau con, cha mẹ mãi là điểm tựa vững vàng nhất”.