Góc khuất học sinh nghiên cứu khoa học: Trả lại giá trị thật cho cuộc thi

Nghiêm Huê,
Chia sẻ

Nếu giải thưởng của cuộc thi không phải là suất tuyển thẳng đại học (ĐH), có lẽ, chỉ những học sinh thực sự đam mê mới tìm đến nghiên cứu khoa học. Khi đó, khoa học chính là khoa học.

Tại ai?

TS Phạm Hiệp, Trường ĐH Thành Đô chia sẻ, là người thường tổ chức tập huấn cho giảng viên, các nhà nghiên cứu phương pháp viết bài báo khoa học, ông nhận được nhiều lời nhờ từ phụ huynh học sinh. Có phụ huynh thực sự mong muốn con em tham gia nghiên cứu khoa học, đi theo con đường nghiên cứu, nhưng cũng có phụ huynh đặt thẳng vấn đề phải có bài báo khoa học.

Với những phụ huynh chỉ có nhu cầu con em có tên trong bài báo khoa học, TS Hiệp từ chối hỗ trợ. Ông Hiệp khẳng định, không nên khuyến khích học sinh đăng bài quốc tế. Bởi thực chất, khi học lớp 10, trình độ tiếng Anh chưa đủ. Lớp 11 mới bắt đầu làm nên lớp 12 chưa thể có bài. Nếu học phổ thông mà có bài báo quốc tế, các trường ĐH nước ngoài khi duyệt hồ sơ sẽ nghi ngờ và như thế là bất lợi, không phải lợi thế.

Ông Hiệp cho rằng, những lùm xùm trong nghiên cứu khoa học của học sinh phổ thông hiện nay xuất phát từ 2 nguyên nhân. Đầu tiên là lợi ích giải thưởng mang lại quá lớn nên nhiều người bất chấp chạy theo. Bởi khi có lợi ích đó, họ sẽ có lợi ích về học thuật lớn hơn. Thứ hai, vấn đề nằm ở ban giám khảo. Do đó, Bộ GD&ĐT cần trang bị cho ban giám khảo công cụ cần thiết để đánh giá, ví dụ như phần mềm chống đạo văn…

TS Phạm Hiệp phân tích, nếu học sinh không trung thực ngay từ khi còn học phổ thông, sẽ rủi ro cho chính các em. Khi đi du học, cái giá phải trả rất có thể sẽ bị đuổi học. Do đó, cần có chuẩn để học sinh, giảng viên khi tham gia nghiên cứu khoa học được minh bạch, rõ ràng. Chuẩn này không phải do Bộ GD&ĐT hay cơ quan quản lí ban hành mà mỗi trường ĐH cần xây dựng chuẩn phù hợp với yêu cầu thực tế.

Hiện nay, xét ở góc độ chống đạo văn, số lượng trường ĐH tại Việt Nam có phần mềm rất ít. Cái nhỏ chưa chuẩn thì những điều lớn lao như liêm chính khoa học rất khó. Nếu không tính từ cái nhỏ thì việc vi phạm liêm chính năm nào cũng sẽ có và không loại trừ ai.

Về cuộc thi khoa học kĩ thuật, ông Hiệp đề xuất Bộ GD&ĐT vẫn đứng ra tổ chức ở cấp quốc gia như hiện nay, nhưng không nên đưa vào quy chế tuyển sinh ĐH là một trong những đối tượng được xét tuyển thẳng khi đạt giải. Việc tuyển thẳng hay không nên để trường ĐH quyết định theo quyền tự chủ. Khi đó, Bộ trả cuộc thi về đúng giá trị chân thực.

Góc khuất học sinh nghiên cứu khoa học: Trả lại giá trị thật cho cuộc thi - Ảnh 1.

Nghiên cứu khoa học cần thực chất, trung thực. Ảnh minh họa: Anh Thư

Một chuyên gia từng tham gia với vai trò ban giám khảo chia sẻ, tuy yêu cầu ban giám khảo chấm theo tiêu chí gắn với những yếu tố phổ thông và chấm những phần thuộc về học sinh nhưng dường như giám khảo vẫn chấm những nội dung “to uỳnh” mà học sinh không làm được. Theo vị này, khi phỏng vấn, giám khảo sẽ biết trong dự án, học sinh có tham gia như thế nào. Nghiên cứu khoa học phải xuất phát từ kiến thức phổ thông, nếu không chỉ ra được cơ sở nghiên cứu là kiến thức môn học nào làm nền tảng nghiên cứu thì hầu như dự án đó là của người lớn.

Chạy theo thành tích ảo

TS Lê Văn Út, Trợ lý Chủ tịch Hội đồng trường về nghiên cứu khoa học kiêm Trưởng phòng Phòng Đảm bảo liêm chính nghiên cứu, Trường ĐH Văn Lang, cho rằng, từ thực tiễn quản trị nghiên cứu khoa học, có thể thấy những chuyện lùm xùm đã, đang và có thể sẽ diễn ra. Đó là việc vi phạm liêm chính trong nghiên cứu khoa học. Các hành vi vi phạm có thể là gian lận, bịa đặt và đạo văn trong quá trình thực hiện, công bố kết quả nghiên cứu. Khi nào còn nghiên cứu khoa học, khi đó hành vi vi phạm liêm chính nghiên cứu có thể xảy ra. Đương nhiên, nếu người tham gia nghiên cứu chưa được đào tạo bài bản về phương pháp nghiên cứu khoa học thì việc vi phạm liêm chính nghiên cứu sẽ dễ xảy ra hơn.

Năm 2024, Bộ GD&ĐT ban hành Quy chế thi Khoa học kĩ thuật quốc gia . Điểm mới của Quy chế là bổ sung yêu cầu nội dung nghiên cứu khoa học, kỹ thuật của học sinh bảo đảm thiết thực, phù hợp với tâm sinh lý lứa tuổi và yêu cầu phát triển phẩm chất, năng lực của học sinh theo mục tiêu của chương trình giáo dục phổ thông; bỏ nội dung khuyến khích các cơ sở giáo dục ĐH, cao đẳng, cơ sở nghiên cứu, các tổ chức và cá nhân hỗ trợ hoạt động nghiên cứu khoa học, kĩ thuật của học sinh trung học.

Việc đứng tên trong một bài báo khoa học là vinh dự rất lớn cho người làm nghiên cứu. Khi đó, tác giả bài báo khoa học được hưởng nhiều lợi ích về vật chất và tinh thần. Có thể nói vấn đề tác giả thông đồng và tác giả “ma” là hai hành vi phổ biến và khó quản trị trong công tác đảm bảo liêm chính nghiên cứu, bởi lẽ bên cho và bên nhận có sự đồng thuận để đổi lấy lợi ích. Tính đến thời điểm này, chưa có quy định nào cấm học sinh không được tham gia nghiên cứu khoa học và trở thành tác giả trong các bài báo khoa học. Do đó, việc có hay không chuyện giảng viên ở các cơ sở giáo dục đại học “tiếp tay” cho học sinh “ké” tên trong bài báo khoa học cần được thẩm định cẩn thận bởi các đơn vị đảm bảo liêm chính nghiên cứu như Hội đồng liêm chính nghiên cứu, Ủy ban đạo đức nghiên cứu. Thật ra, không quá khó để giải quyết vấn đề này nếu có sự quyết tâm.

Do chưa có quy định nào cấm học sinh không được làm nghiên cứu và trở thành tác giả của các bài báo khoa học, do đó, không có nghĩa là cứ học sinh tham gia nghiên cứu chung với giảng viên đại học thì lại nghĩ ngay đến việc vi phạm liêm chính nghiên cứu. Một khi có nghi ngờ tác giả một bài báo khoa học (bất kỳ ai, không chỉ là học sinh), có thể dựa vào dấu hiệu liên quan đến hành vi vi phạm liêm chính nghiên cứu thuộc các nhóm gồm gian lận, bịa đặt và đạo văn. Trong đó, gian lận trong nghiên cứu có 8 hành vi; bịa đặt trong nghiên cứu có 4 hành vi; và đạo văn trong nghiên cứu có 7 hành vi. Đối với một tác giả không có đóng góp thực sự trong bài báo hay nói chung là vi phạm liêm chính nghiên cứu, không khó để phát hiện sau quá trình rà soát và soi xét qua 19 hành vi như đã nêu.

TS. Lê Văn Út cho rằng, việc ngăn chặn hay triệt tiêu tình trạng vi phạm liêm chính nghiên cứu khoa học không chỉ là đối với học sinh mà nên xem xét vấn đề này với tất cả người làm nghiên cứu khoa học. Tuy nhiên, người làm nghiên cứu chưa được đào tạo về phương pháp nghiên cứu khoa học, trong đó có các nội dung về đạo đức/liêm chính nghiên cứu, thì khả năng vi phạm liêm chính nghiên cứu có thể cao hơn. Có thể nói, học sinh phần nhiều thuộc nhóm này.

Để hạn chế tình trạng này, cần xem xét việc chạy theo các thành tích ảo, phong trào ảo trong nghiên cứu khoa học đối với học sinh phổ thông. Vấn đề này không chỉ là trách nhiệm của những học sinh tham gia, mà còn là của những người hướng dẫn, phụ trách và của các đơn vị quản lý, lãnh đạo từ cơ sở đến cấp cao.

“Có bình thường không khi một học sinh là tác giả của những công trình nghiên cứu tương đương các luận án tiến sĩ, trong khi trường phổ thông không có trang thiết bị thí nghiệm phục vụ cho những nghiên cứu đó. Nếu cho rằng học sinh đó đã tham gia nghiên cứu và làm thí nghiệm tại phòng thí nghiệm của các cơ sở giáo dục đại học thì cần có minh chứng cụ thể”, ông Út băn khoăn.

Tuy nhiên, ông cho rằng, nhìn rộng ra vẫn có thể có những chủ đề nghiên cứu mà những học sinh phổ thông có năng lực đặc biệt tham gia làm nghiên cứu cùng với sự hỗ trợ/hướng dẫn của những người làm nghiên cứu chuyên nghiệp. Khi đó học sinh được đứng tên là tác giả của công trình nghiên cứu là điều hết sức bình thường.

Chia sẻ