Từ mái hiên chợ đến phòng lab Texas: Hành trình vươn mình của Tiến sĩ trẻ Việt Nam
“Con đường tôi đi giống như một dòng nước chảy, gặp đá thì vặn dòng, gặp khe hở thì tràn xuống. Tôi chỉ có một nguyên tắc: Cơ hội đến thì nắm, không đợi bản thân “hoàn hảo” rồi mới bắt đầu. Bởi tôi sinh ra không ở vạch xuất phát số 0, tôi đi lên từ con số âm, nên mỗi bước tiến dù nhỏ cũng là bước ra khỏi bóng tối”, Tiến sĩ Trần Quốc Thiện xúc động chia sẻ.
Ở tuổi 33, Trần Quốc Thiện trở thành cái tên khiến cộng đồng học thuật và giới nghiên cứu chú ý. Anh trúng tuyển chương trình nghiên cứu sau Tiến sĩ tại Đại học Texas - Austin, ngôi trường được xếp hạng 4 toàn nước Mỹ về ngành Kỹ thuật Xây dựng (theo US News), vượt trên những tượng đài như Stanford, Cornell hay MIT. Không chỉ dừng ở đó, anh còn được một số Đại học tại Mỹ mời phỏng vấn vị trí assistant professor- bậc khởi đầu trong hệ thống ba nấc thang Giáo sư ở Mỹ (assistant - associate - full professor).
Trước khi đặt chân đến Texas, Trần Quốc Thiện đã hoàn thành Tiến sĩ Kỹ thuật Xây dựng cùng Thạc sĩ song bằng Khoa học vật liệu tại Đại học Bách khoa Virginia (xếp hạng 6 ở Mỹ về ngành Xây dựng, US News 2023) trong chưa đầy 3 năm, trong khi thông thường hành trình này kéo dài 5 đến 6 năm.
Chúng tôi đã có dịp trò chuyện với Tiến sĩ Trần Quốc Thiện không chỉ để thấy anh đã đi bằng cách nào, mà là anh đang đi đến đâu cũng như sẽ tạo ra giá trị gì cho các bạn trẻ thế hệ kế cận.

Cha mất sớm, tuổi thơ của anh gắn với những chuyến bốc vác, bán xôi cùng mẹ và em trai. Anh có thể kể về ký ức thời thơ ấu không?
Cha mất khi tôi mới gần 2 tuổi, chưa kịp nhận diện khuôn mặt cha, em trai tôi khi ấy chỉ chưa được 1 tuổi. Tuổi thơ của tôi gói gọn trong 2 chữ “lao động”, là những buổi sáng bê thúng, chiều đẩy xe, tối ngủ gật trên bàn học.
Hình ảnh in sâu nhất trong tôi là những ngày hai anh em đẩy xe xôi phụ mẹ. Hồi đó khoảng 5 - 6 tuổi, người còn nhỏ thó, nấp sau cái đuôi xe đạp thồ của mẹ nhìn như bị nuốt chửng. Mùa bão miền Trung khắc nghiệt, mưa trắng trời, gió quất rát mặt, hàng chuối hai bên nghiêng ngả. Hai anh em cắm đầu, đẩy cái thúng xôi ngược chiều gió. Ba mẹ con chỉ có đúng một chiếc áo mưa cánh dơi, tà phía trước mẹ vắt lên giỏ xe, tà sau để che thúng xôi và hai anh em tôi, xôi mà ướt là ngày đó cả nhà “mất ăn”.
Tôi tồn tại ngày hôm nay, đứng được ở đây, không phải nhờ may mắn mà nhờ có mẹ tuyệt vời - không bao giờ đầu hàng số phận, người đã dạy hai anh em tôi bài học đầu đời: Cách đứng vững giữa bão giông.

Mẹ là người phụ nữ vĩ đại với anh, bà đã bảo ban định hướng cho anh theo cách nào?
Mẹ không bao giờ so sánh, áp đặt, kỳ vọng lên tôi về điểm số hay thành tích. Mẹ chỉ học hết lớp 9 thì nghỉ nên không thể kèm bài học cho anh em tôi nhưng điều mẹ dạy lại vượt xa sách vở. Câu mẹ nói suốt tuổi thơ khiến tôi nhớ mãi là: “Ráng học nghe con… đừng để không có chữ như má, khổ lắm”.
Mẹ không biết dạy chữ, nhưng mẹ dạy cách đứng thẳng làm người. Không chiến lược, không lý thuyết, không triết lý cao siêu, chỉ là một người đàn bà đội mưa đẩy xe xôi, kéo bao hàng, trả nợ đời bằng đôi vai nhỏ và một đức tin thô mộc rằng con cái phải được đi xa hơn mình.
Có bao giờ khi đang lao động vất vả, anh hình dung có ngày được ngồi ở phòng lab Texas, nói chuyện với các Giáo sư hàng đầu thế giới trong ngành?
Ước mơ của tôi lúc ấy giản đơn là được ăn đủ ba bữa, không đói để còn có sức đi học và phụ mẹ. “Không đói” mới chính là giấc mơ xa xỉ.
Tuổi trẻ của tôi không phải đường cao tốc với biển chỉ dẫn rõ ràng, mà giống một con đường đất mịt mù bụi - nơi người đi không nhìn thấy đích, chỉ biết bước thêm một bước là thoát xa thêm một tấc khỏi đời cũ.

Vậy điều gì ở ngành Xây dựng khiến anh chọn nó, chứ không phải Cơ khí, Điện, CNTT…?
Năm 2005, mẹ tôi chuyển sang bán gỗ xây dựng. Công việc hàng ngày của anh em tôi là giúp mẹ bốc vác hàng, kéo xe ngoài đường đi giao hàng, phơi mặt giữa bụi bặm và cái nắng gắt công trình. Cửa hàng nhỏ của mẹ là nơi tôi nhìn thấy một thế giới khác lướt qua: Khách ra vào, trong đó có những chủ thầu công trình, chủ đầu tư - những người ngồi sau vô lăng xe xịn, mặc áo sơ mi phẳng phiu, đeo đồng hồ sáng loáng, dùng điện thoại đắt tiền. Không có ai chỉ dẫn hết, lúc đấy tôi quyết định theo học Xây dựng, với suy nghĩ đơn giản sau này để thoát nghèo.
Giờ nhìn lại cả chặng đường dài, mọi thứ đến đều rất ngẫu nhiên - như một cơ duyên kì lạ, chỉ có một thứ tôi chủ động lựa chọn là lao động và học hành nghiêm túc. Còn lại, tất cả đều đến như nước chảy theo dốc, tôi không mưu cầu quá xa, không ai chỉ đường dẫn lối, thời đó chưa có mạng xã hội rộng rãi để được “truyền cảm hứng”, chưa có ai nói cho mình biết nghề nào “hot”, ngành nào có “tương lai”.

Ra trường, cầm trên tay 2 tấm bằng kỹ sư Xây dựng Cầu đường và Kinh tế Xây dựng – Quản lý dự án, anh bắt đầu công việc đầu tiên như thế nào?
Khi tôi đang học năm cuối Đại học, trường ĐH Bách Khoa Đà Nẵng khởi công công trình 12 tầng biểu tượng của trường, cao nhất quận Liên Chiểu thời điểm ấy. Tôi tranh thủ xin vào công trường thực tập. May mắn, bác chỉ huy phó công trình nhận tôi làm học trò. Những ngày đầu rất vất vả cả về thể chất lẫn khối lượng kiến thức mới, bác dạy bảo rất nhiều, thấy tôi non dại hay bị bắt nạt nên bác nói với anh em làm công trình rằng tôi là con nuôi của bác, sau thành thật luôn. Khi công trình kết thúc, bác chuyển sang với vai trò Giám đốc dự án của một khu đô thị rất lớn ở miền Trung, tôi may mắn được theo bác làm trợ lý. Tôi làm cùng bác 2 năm, rồi mới đi du học.
Bác từng chỉ huy xây dựng rất nhiều công trình tầm cỡ nên làm việc bên bác, tôi học được cả chuyên môn lẫn cách làm người. Làm việc giữa môi trường đầy rẫy va chạm và sự phức tạp, nhưng bác vẫn dùng sự chân thành như một tấm khiên mềm khiến mọi người nể trọng bác. Điều đó in vào tôi như một quy tắc sống: Làm gì cũng phải “thật” vì uy tín và cái tâm của mình, đây là thứ rất khó để giả tạo, thứ khiến người khác tin tưởng và dám trao cơ hội cho mình.
Khi đã là Kỹ sư với mức thu nhập ổn tại Việt Nam, điều gì khiến anh chọn rời bỏ vùng an toàn để sang Hàn Quốc học Thạc sĩ?
Lúc đó tôi có việc làm ổn, thu nhập tương đối tốt so với một kỹ sư trẻ mới ra trường. Mọi thứ đang “êm như mặt nước hồ”, vậy mà chỉ một tin nhắn của người thầy ở ĐH Bách khoa Đà Nẵng đã tạo nên con sóng đầu tiên. Thầy hỏi: “Em có muốn đi du học không?” - câu hỏi đã thay đổi cả cuộc đời tôi.
Tôi bắt đầu tìm hiểu ngay trong 24 giờ tiếp theo và nhận ra đó là cánh cửa mở ra một thế giới khác - học bổng học phí, tài trợ tài chính, trải nghiệm môi trường quốc tế, cơ hội đào sâu chuyên môn. Thầy giới thiệu tôi ứng tuyển vào phòng thí nghiệm cũ của thầy, đợt đấy tôi chuẩn bị hồ sơ khá muộn nên họ đã nhận đủ người. Hơi hụt hẫng, nhưng quan trọng tôi tìm thấy ánh sáng mới cho chặn đường tương lai những năm tới sau những ngày bình yên đến chán chường. Tôi lao vào chuẩn bị hồ sơ, trau dồi thêm tiếng Anh như kẻ không còn thời gian để chờ đợi.
Rồi cơ duyên khác xuất hiện: Năm 2016, một Giáo sư Hàn Quốc bay sang Sài Gòn và Hà Nội để tuyển học trò. Tôi lại ở Đà Nẵng, thời điểm đó vé máy bay là khoản chi khá lớn. Tôi đánh liều viết thư xin phỏng vấn trực tuyến, trình bày theo cách chân thành nhất. Giáo sư đồng ý. Buổi phỏng vấn hôm ấy không quá suôn sẻ, tiếng Anh chưa tốt, câu trả lời cũng còn vụng về, nhưng may mắn tôi đã được thầy nhận. Tôi tin không phải vì tôi quá xuất sắc, mà là sự chân thành, không “giấu dốt”, cùng một năng lượng học hỏi không ngừng.
Như anh chia sẻ, thời điểm đứng trước cánh cửa du học, rào cản lớn nhất của anh là ngoại ngữ. Anh đã khắc phục yếu điểm bằng cách nào?
Tiếng Anh của tôi từng khá tệ, dân Bách khoa mà, học ngoại ngữ kém lắm (cười lớn). Nhưng số phận lại cài sẵn một mảnh ghép: Trong những lần đi nấu cháo tình nguyện cho các Bệnh viện trên địa bàn Đà Nẵng, tôi gặp một bác cựu binh Úc quay lại Việt Nam sinh sống và hoạt động thiện nguyện. Bác quý nên mời tôi và vài bạn trẻ nữa về nhà dạy tiếng Anh miễn phí 3 buổi/tuần, còn nấu cho chúng tôi ăn vào các tối có buổi học. Có hôm công trường đổ bê tông tăng ca, xi măng, vữa trộn dính đầy người, xong việc tôi vẫn phóng đến nhà bác. Nhờ bác dạy dỗ tận tình, tiếng Anh của tôi cải thiện nhanh chóng.
Đầu năm 2017, tôi xách hành lý sang Hàn Quốc. Không sợ hãi hay đắn đo, giống hồi đẩy xôi dưới mưa vậy, mà giờ cũng không còn xôi để mất nữa, việc gì mà… không thử. Nhìn lại, con đường tôi đi một dòng nước chảy, gặp đá thì vặn dòng, gặp khe hở thì tràn xuống. Tôi chỉ có một nguyên tắc: Cơ hội đến thì nắm, không đợi bản thân “hoàn hảo” rồi mới bắt đầu. Bởi tôi sinh ra không ở vạch xuất phát số 0, tôi đi lên từ con số âm, nên mỗi bước tiến dù nhỏ cũng là bước ra khỏi bóng tối.

Sang Hàn Quốc, anh được tham gia các dự án quy mô lớn. Những trải nghiệm “thực chiến” ấy có phải là bàn đạp tạo tín nhiệm, giúp anh được nhiều trường top thế giới cấp học bổng Tiến sĩ toàn phần về sau?
Ở các nước phát triển, dự án nghiên cứu hiếm khi nằm trên giấy - nó gắn với đời sống thật, với ngân sách quốc gia và bài toán của các tập đoàn lớn. Dự án đầu tiên tôi tham gia làm về đánh giá an toàn hệ thống điện ngầm dưới tác động của động đất. Ở Hàn Quốc, hệ thống lưới điện được đặt trong những đường hầm chằng chịt chôn sâu dưới đất, đường kính khoảng 3m. Làm ở đó, tôi mới thấy “thất bại” xảy ra mỗi ngày. Nhưng tôi luôn tâm niệm một câu khi bước vào phòng lab: “Không bao giờ là thất bại, tất cả là thử thách” - đó cũng là tiêu đề cuốn sách của Chung Ju-yung - nhà sáng lập tập đoàn Hyundai mà tôi rất thích.
Giáo sư hướng dẫn của tôi nghiêm khắc. Suốt mấy năm trời, tôi làm việc 10 - 12 tiếng/ngày và gần như không có khái niệm “cuối tuần”. Một tuần 6 - 7 ngày đều đặn hơn 2 năm, tôi làm việc như chiếc máy. Nếu không có sức khoẻ, không có độ dẻo và độ lì của thần kinh sẽ không trụ được lâu đến thế.
Kết thúc chương trình, ban đầu tôi chọn Úc cho chặng kế, chứ không định sang Mỹ. Nhưng dịch ập đến, Úc đóng cửa biên giới, kế hoạch đảo chiều. Tôi buộc chuyển hướng sang Mỹ. Sang Mỹ đúng khi dịch COVID-19 đạt đỉnh điểm, thời tiết vùng tôi sống lạnh hơn cả Hàn Quốc, bầu trời u ám, thị trấn nhỏ im bặt, mỗi ngày tôi chỉ đi đúng hai tuyến đường từ nhà đến lab, rồi từ lab về nhà vậy. Giãn cách nên không tiếp xúc với ai, không giao tiếp, không hoạt động giải trí khiến tâm lý tôi rơi vào khủng hoảng trầm trọng. May mắn được Giáo sư hướng dẫn động viên cũng như hỗ trợ nhiệt tình, rồi vaccine được phổ biến, mọi thứ dần trở nên tốt hơn.
Sau khi hoàn tất chương trình tại Hàn Quốc, vì sao anh quyết định sang Mỹ học tại Đại học Bách khoa Virginia (Virginia Tech)? Môi trường mới mang đến cơ hội học tập, nghiên cứu ra sao, thưa anh?
Đơn giản vì tôi tìm kiếm cơ hội mới, môi trường mới, thử thách mới. Dự án đầu tiên của tôi ở Mỹ là nghiên cứu chế tạo loại bê tông đông cứng siêu nhanh, chỉ trong vòng 1 giờ, theo đơn đặt hàng đến từ Không lực Hoa Kỳ. Trong kịch bản chiến tranh, sân bay quân sự thường sẽ là nơi bị oanh kích đầu tiên, nên yêu cầu những loại vật liệu vá hố bom siêu nhanh là vô cùng quan trọng, đảm bảo cho sân bay được vận hành liên tục chứ không thể chờ bê tông kiểu truyền thống vốn cần từ vài ngày đến cả tháng để đạt cường độ kỳ vọng; nhiệm vụ của chúng tôi là tạo ra một loại “bê tông cấp cứu” để vá khẩn cấp hố bom, sau 1 - 2 giờ phi cơ có thể cất/hạ cánh. Suốt một năm, tôi sống cùng dự án ấy.
Mỗi năm, riêng nước Mỹ thải ra khoảng 300 triệu lốp ô tô cũ, phần lớn trong số đó bị đưa ra bãi rác hoặc đốt. Một trong số những dự án khác mà tôi cùng nhóm nghiên cứu đảm nhận là tìm cách tái chế nó vào trong vật liệu xây dựng xanh.
Hay là việc hợp tác với Viện Tiêu chuẩn quốc gia Hoa Kỳ (NIST) để thiết kế một mô hình thí nghiệm hóa học nhằm đo lượng CO₂ được hấp thụ bởi vật liệu xây dựng, nhằm giúp giảm hiệu ứng khí nhà kính. Còn nhiều dự án khác nữa mà tôi từng phụ trách, tất cả ghép lại thành một bức tranh nghề nghiệp rõ ràng và hoàn thiện hơn. Điều này giúp tôi cảm thấy mình sống có ích cũng như nung nấu khát vọng được cống hiến cho địa phương sở tại cũng như quê nhà hơn nữa.
Sau những năm ở Mỹ - trải nghiệm những môi trường nghiên cứu về Xây dựng hàng đầu, cuối cùng đã để lại cho anh “tài sản” gì?
Điều đầu tiên tôi học được cách con người động viên nhau trong công việc. Thay vì “sai là mắng, yếu là chê”, thay vì tiếng quát, tôi nhận được sự nâng đỡ và động viên. Giai đoạn đầu khi mới tham gia nghiên cứu, tôi làm chưa quen việc, Giáo sư không phán xét chỉ nhẹ nhàng sửa việc và chỉ dạy. Cho đến bây giờ vẫn vậy, thi thoảng có những thứ tôi không biết, Thầy chỉ động viên bằng một câu: “No worry, you are learning”, đại loại như là: “Không sao đâu, em đang trên con đường học hỏi mà”.
Điều thứ hai là tư duy linh hoạt. Ở Mỹ, kết quả được đặt lên bàn như mục tiêu cuối thay vì cách tiếp cận và các rào cản quy tắc không cần thiết. Điều này giúp tăng năng suất làm việc cũng như tạo động lực phát triển nhiều hơn.

Là thế hệ trẻ, theo anh, thanh niên Việt đang thiếu gì để bật lên: Thiếu kỹ năng, thiếu hệ sinh thái hay thiếu… một niềm tin vào chính mình? Liệu có con đường nào để bứt phá thần tốc được không?
Thế hệ trẻ hôm nay thực ra không hề kém, thậm chí vượt trội so với thế hệ trước ở nhiều mặt: Ngoại ngữ tốt hơn, tự tin hơn, dạn dĩ hơn, tiếp cận tri thức toàn cầu chỉ thông qua máy tính, được hỗ trợ bởi AI, các nền tảng và công cụ học tập mà thời trước không có.
Tuy nhiên nếu làm dụng các công cụ và trí tuệ nhân tạo quá nhiều, một số bạn lại đánh mất khả năng tư duy phản biện và bản năng sinh tồn một cách độc lập. Khi những cú sốc đầu đời hay “thất bại tạm thời” ập đến, các bạn dễ bị tổn thương, lạc lối dẫn đến bỏ cuộc giữa chừng hay mất niềm tin vào bản thân.
Còn câu hỏi “bứt phá thần tốc”, tôi không tin có đường tắt. Những gì ta gọi là “lên rất nhanh” thường là khúc bùng nổ sau một chu kỳ dài âm thầm tích lũy đủ vốn - vốn kỹ năng, vốn trải nghiệm, vốn quan hệ, vốn kỷ luật. Không có phép màu. Không có shortcut, chỉ có hai thứ: Chuẩn bị đủ kỹ, và kiên nhẫn đủ lâu.

Được biết anh mới có bài phát biểu chỉ vỏn vẹn 2 phút tại Phủ Chủ tịch trước sự hiện diện của nguyên thủ quốc gia. Trong khoảnh khắc ngắn ngủi nhưng mang tính biểu tượng ấy, anh đã chọn nói điều gì là cốt lõi?
Nếu tính từ ngày bước chân vào giảng đường Đại học Bách khoa Đà Nẵng đến khoảnh khắc đứng trong Phủ Chủ tịch, đó là một hành trình đúng 15 năm. 15 năm - một đoạn đường không quá dài cũng chẳng phải ngắn cho một đời người từ ngày đặt chân vào giảng đường Đại học. Vượt qua rào cản định kiến xã hội, phân biệt giàu nghèo, hơn thua nhau qua từng con điểm, thành tích, tôn chỉ làm việc của tôi luôn hướng tới mong muốn đóng góp chút sức lực/giá trị cho xã hội, cũng như giúp đỡ được nhiều hoàn cảnh giống tôi thời thơ ấu.
Thứ nhất, về chuyên môn, tôi mong muốn chính phủ hỗ trợ các liên kết hợp tác giữa các nhà khoa học và doanh nghiệp trong nước nhằm tận dụng nguồn tri thức và công nghệ cao ở các nước phát triển, góp phần đẩy nhanh bước chuyển mình của đất nước.
Thứ hai, tôi muốn mang cái tên cộng đồng học thuật PhD.Hub lên tầm quốc gia và thể hiện mong muốn được chính phủ quan tâm/ủng hộ về mặt tinh thần hơn để cộng động ngày càng hỗ trợ được nhiều bạn sinh viên tìm kiếm học bổng đến các nước phát triển, sau này có thể quay về phụng sự quốc gia.

“Vươn mình kiến quốc”, theo anh, giá trị ấy có ý nghĩa gì với thế hệ trẻ hôm nay?
Với tôi, cống hiến không đo bằng tọa độ địa lý. Dù ở bất cứ đâu, quan trọng nhất vẫn là bạn mang được bao nhiêu giá trị về cho đất nước, nơi mình sinh ra và lớn lên. Tôi vẫn duy trì trao đổi học thuật với các bộ ngành và một số cơ quan chính phủ để những hiểu biết, kiến thức của mình được chạm đến đời sống thực tiễn, sản xuất trên chính đất nước mình sinh ra.
Tôi sáng lập cộng đồng PhD.Hub hiện có hơn 120.000 thành viên, được vận hành bởi các bạn tình nguyện viên dưới sự tham vấn của các Giáo sư người Việt trên khắp thế giới. Mỗi năm, cộng đồng hỗ trợ hàng trăm bạn trẻ săn học bổng quốc tế; mỗi suất học bổng thường có giá trị từ vài tỷ đồng, có trường hợp lên tới 15 tỷ đồng. Việc đưa được thêm một bạn trẻ ra nước ngoài bằng học bổng nghĩa là nhà nước tiết kiệm được ngân sách cho giáo dục, xã hội có thêm một đơn vị chất xám được nâng cấp, đất nước tương lai có thêm một nhân tố để phát triển.

Nếu phải nén gọn triết lý sống – học – làm khoa học của anh thành 3 từ cho người trẻ ngày nay, ba từ đó là gì và vì sao?
Với bản thân tôi, nếu phải rút cả quãng đường 15 năm sự nghiệp vào ba từ, có lẽ là: Chân thành, Kiên trì, và Biết ơn.
Tôi tin rằng, những gì được tạo nên từ sự chân thành sẽ luôn bền vững. Chân thành trong cách đặt vấn đề, chân thành khi tìm kiếm sự giúp đỡ, chân thành lúc gửi lời cảm ơn, và cả khi mình vẫn chưa có gì trong tay. Khi mình chân thành, người khác không chỉ giúp - mà giúp hết mình: bằng kinh nghiệm sống, bằng mạng lưới, thậm chí bằng cả uy tín của họ.
Giá trị thứ hai là sự kiên trì, bởi những điều tốt đẹp cần thời gian để hình thành. Không có kiên trì, mọi thứ có thể dở dang ngay trước vạch đích.
Cuối cùng là sự biết ơn. Sự tử tế này không phải là mềm yếu, mà là một quy luật nên có. Nếu không có những quý nhân chỉ đường dẫn lối, chìa tay giúp đỡ bạn lúc khó khăn hoạn nạn, những lúc bạn lạc lối đánh mất chính mình thì chắc chắn bạn hay tôi cũng đều không có ngày hôm nay.
Cảm ơn anh về buổi chia sẻ ý nghĩa, thú vị!

