Ai sẽ bảo vệ tương lai của những học sinh còn lại?

TS Nguyễn Quốc Toàn,
Chia sẻ

Thông tư 19/2025/TT-BGDĐT vừa ban hành quy định về khen thưởng và kỷ luật học sinh. Điểm gây tranh cãi nhất là xóa bỏ hoàn toàn hình thức đình chỉ, buộc thôi học đối với học sinh vi phạm nghiêm trọng. Nói cách khác, cho dù học sinh có hành vi bạo lực, đe dọa tính mạng thầy cô hay bạn học, nhà trường cũng không được phép áp dụng biện pháp loại khỏi lớp. Nghe qua thì rất nhân văn, nhưng thực chất hướng dẫn này lại đặt cả thầy và trò vào tình thế nguy hiểm.

Tôi muốn hỏi: Ai sẽ bảo vệ tương lai của mấy chục/mấy trăm học sinh còn lại?

1. An toàn học đường là nguyên tắc tối thượng

Một lớp học là không gian giáo dục, không phải phòng thí nghiệm để thử nghiệm lòng nhân từ. Khi một học sinh có hành vi bạo lực, đe dọa đến thầy cô và bạn bè, việc buộc nhà trường phải giữ em đó trong lớp đồng nghĩa với gieo rắc nỗi sợ hãi thường trực vì mất an toàn, Hàng chục, hàng trăm học sinh còn lại sẽ phải sống trong lo lắng.

Ai sẽ bảo vệ tương lai của những học sinh còn lại? - Ảnh 1.

Theo Safe School Initiative – Final Report and Findings của U.S. Secret Service & Department of Education (2004), các vụ tấn công trường học không xảy ra bột phát, thủ phạm thường bộc lộ dấu hiệu cảnh báo từ trước, và đa số đã chia sẻ ý định với người khác trước khi hành động.

Mô hình đánh giá đe dọa (threat assessment) trong trường học, được phát triển bởi Đại học Virginia theo Hướng dẫn Đánh giá Nguy cơ tại trường học (Comprehensive School Threat Assessment Guidelines -CSTAG) và được khuyến nghị trong các báo cáo của U.S. Secret Service (Cơ quan Mật vụ Mỹ) và Department of Education (Bộ Giáo dục), là quy trình đa ngành (threat assessment team) nhằm phát hiện sớm – đánh giá mức độ đe dọa – can thiệp phù hợp, kể cả tạm thời tách học sinh nguy hiểm khỏi lớp, để vừa bảo đảm an toàn cho cộng đồng trường học vừa hỗ trợ cá nhân có nguy cơ.

Do vậy, theo các nghiên cứu, trên thực tế, các trường thiếu cơ chế “tách khẩn cấp” và “đánh giá nguy cơ” (threat assessment) thường lúng túng, dẫn tới mất an toàn thực sự.

Việc triển khai đánh giá rủi ro đa ngành đã giúp giảm đáng kể các trường hợp đình chỉ dài ngày và bắt giữ học sinh, đồng thời tạo môi trường học an toàn hơn. Đây cũng là phương pháp hiệu quả nhất để ngăn chặn và phòng ngừa các vụ bạo lực nghiêm trọng trong trường học.

Đây là “công cụ” mà Thông tư 19 đã vô tình tước bỏ.

2. Quyền lợi số đông không thể bị hi sinh vì một cá biệt

Nhiều ý kiến từ phụ huynh và giáo viên bày tỏ lo ngại rằng trong quá trình triển khai Thông tư 19, có thể tạo ra những tác động ngoài mong muốn đối với tập thể lớp. Không ít phụ huynh chia sẻ nỗi lo con em mình có thể bị ảnh hưởng về tâm lý, bị cô lập hoặc phải học tập trong môi trường thiếu an toàn.

Vì vậy, theo các chuyên gia tâm lý giáo dục, khi xây dựng chính sách cần tính đến sự cân bằng giữa quyền lợi cá nhân và lợi ích chung của tập thể. Một quyết định ban hành trên văn bản đôi khi chưa phản ánh hết những tình huống thực tế mà học sinh và giáo viên phải đối diện hằng ngày.

Luật pháp luôn đặt ra nguyên tắc cân bằng quyền. Khi một hành vi vượt qua ngưỡng đe dọa an toàn thể chất, quyền an toàn của số đông phải được ưu tiên. Cách duy nhất để cân bằng là cho nhà trường có quyền tách khẩn cấp hoặc buộc thôi học khi không còn giải pháp khác.

3. Ảo tưởng về “giáo dưỡng cấp tốc”

Những người ủng hộ thay đổi trên của Thông tư 19 có lẽ cho rằng “học sinh cá biệt có thể thay đổi nhanh nếu được giáo dục bằng tình thương, sự bao dung và các tác động hỗ trợ phù hợp”. Đây là một giả định đầy ảo tưởng, thiếu tính thực tế.

Nghiên cứu về can thiệp hành vi hung tính tại trường học cho thấy hiệu quả thay đổi chỉ ở mức nhỏ đến trung bình, và quan trọng hơn, không có thay đổi tức thì. Các chương trình nghiêm túc thường kéo dài nhiều tháng, thậm chí cả năm, và cần sự phối hợp liên tục của gia đình và chuyên gia tâm lý.

Trong thời gian đó, hàng chục và thậm chí hàng trăm/hàng nghìn học sinh khác phải đánh đổi bằng sự an toàn với nỗi ám ảnh kéo dài? Liệu đây có phải là công bằng?

4. Gia đình không phải lúc nào cũng đồng hành với nhà trường

Một giả định khác ủng hộ cho điểm này của Thông tư 19: gia đình sẽ tích cực phối hợp với nhà trường để thay đổi học sinh. Nhưng thực tế ở Việt Nam, không ít phụ huynh coi trường học như “nhà giữ trẻ”, phó mặc hoàn toàn cho thầy cô. Họ hoàn toàn không hợp tác với nhà trường.

Các nghiên cứu cho thấy: sự thiếu hợp tác của cha mẹ làm giảm đáng kể hiệu quả can thiệp thay đổi hành vi của đứa trẻ.

Vậy nếu gia đình không chịu hợp tác tại sao chúng ta lại đặt gánh nặng giáo dưỡng lên vai nhà trường, rồi bắt cả trường, cả lớp với mấy chục, mấy trăm học sinh khác làm “nạn nhân” cho sự thiếu trách nhiệm của gia đình? Chúng ta có đủ nguồn lực cho việc này không?

5. Đừng ngây thơ về mức độ vi phạm

Có một ngộ nhận nguy hiểm nữa: học sinh còn trẻ thì không thể gây ra hành vi nghiêm trọng nên không cần phải cách ly. Nhưng thực tế, trẻ vị thành niên hoàn toàn có thể mang vũ khí đến trường, sử dụng ma túy, lạm dụng tình dục, thậm chí gây án mạng.

Ở Việt Nam, Bộ luật Hình sự quy định: từ đủ 14 tuổi, học sinh đã phải chịu trách nhiệm hình sự với các tội rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng; từ 16 tuổi chịu trách nhiệm với hầu hết tội danh. Không thể tiếp tục lấy lý do “chưa 18 tuổi, còn non nớt” để bao biện. Trẻ hôm nay thông minh và nhận thức tốt hơn thế hệ trước rất nhiều.

Với Thông tư 19, chúng ta đang mở ra một cái hộp Pandora: học sinh cá biệt biết mình “không thể bị đuổi học” sẽ càng lạm dụng, thách thức kỷ luật và làm ảnh hưởng tiêu cực, thậm chí có hại cho thầy cô, bạn bè.

6. Hình sự hoá vi phạm của học sinh

Khi Thông tư 19 bỏ hình thức buộc thôi học, trường gần như bị tước đi “vũ khí bảo vệ cuối cùng”. Giả sử một học sinh mang hung khí đe dọa bạn bè và giáo viên hoặc có những hành vi phạm pháp nghiêm trọng, trường không còn quyền tách khẩn cấp, thì giải pháp duy nhất còn lại là… mời công an đến và…truy tố hình sự.

Như vậy, điều được gọi là “nhân văn” lại vô tình làm hủy hoại tương lai học sinh nhiều hơn: thay vì chịu một hình phạt trong phạm vi nhà trường, học sinh vi phạm phải đứng trước pháp luật hình sự.

Trong khi đó, việc cho phép “tách khẩn cấp + đánh giá nguy cơ” giúp giảm đáng kể việc bắt giữ học sinh. Chính vì thiếu cơ chế này, Thông tư 19 đẩy nhà trường vào thế bí, và có thể phản tác dụng.

Ai sẽ bảo vệ tương lai của những học sinh còn lại? - Ảnh 2.

TS Nguyễn Quốc Toàn

7. Bài học từ sự kiện “học sinh tấn công cô giáo”

Sự việc học sinh mang đồ sắc nhọn, khi bị tịch thu thì tấn công cô giáo gần đây khiến tôi ớn lạnh. Cứ nghĩ đến sau này nhiều học sinh có thể nghênh ngang mang những vũ khí sát thương như thế đến trường mà không thể bị xử lý triệt để là chúng tôi rùng mình.

Nhưng điều làm tôi quan ngại hơn chính là cách xử lý: chính quyền địa phương thì “xin ý kiến” Sở GD&ĐT và cấp trên. Việc này chứng tỏ chính quyền làm rất lâu và có lẽ là thực sự không biết phải làm gì; Một việc nghiêm trọng thế mà mấy vài hôm đi “xin ý kiến”. Sở, Ban ngành thì cũng chỉ có thể trả lời đây là việc rất nghiêm trọng. Rất nghiêm trọng rồi thì sao?

Trong khi đó, việc cấp bách là bảo vệ giáo viên và những học sinh còn lại thì dường như không ai để ý và không ai trả lời.

8. Hãy trả lại quyền quyết định cho hiệu trưởng

Trường học phải được quyền quyết định cho học sinh nghỉ học hoặc buộc thôi học khi vi phạm nghiêm trọng. Bộ GD&ĐT không thể “cấm” thay cho những người trực tiếp quản lý giáo dục. Làm như vậy chẳng khác nào coi các nhà quản lý giáo dục như trẻ con, không biết phải làm gì đúng nhất.

Hãy tin rằng những nhà quản lý đủ tử tế, đủ kinh nghiệm để không lạm dụng hình thức kỷ luật nặng nhất. Đừng tước đi quyền bảo vệ cuối cùng của trường học và người thầy. Một chính sách nhân danh “cứu lấy một em” nhưng mặc nhiên đẩy hàng chục/hàng trăm em khác vào vùng nguy hiểm thì không thể gọi là nhân văn.

Chính việc bỏ quyền cho nghỉ học và buộc thôi học này này mới là cách làm trường học trở nên không an toàn, mới là hành vi tác động tiêu cực đến tương lai của hàng chục hàng trăm học sinh vô tội khác.

*Bài viết thể hiện quan điểm riêng của tác giả.

Chia sẻ