Lặp lại tình trạng Nhật Bản gặp phải 14 năm trước, Trung Quốc có lâm vào "thập kỷ mất mát" tương tự?
Ở thành phố Nantong của Trung Quốc, những người cao tuổi làm bảo vệ nhà máy, điều hành các cửa hàng tạp hóa, rửa dụng cụ ăn uống, phục vụ thực khách tại các quán ăn địa phương, làm việc trên cánh đồng cải và các công việc khác…
Tiếng chuông cảnh báo
Nantong từng được biết đến là cái nôi của nền công nghiệp hóa hiện đại của Trung Quốc, nơi các nhà máy dệt đầu tiên của đất nước được xây dựng vào những năm 1890. Đến những năm 1990, vinh quang trong quá khứ của Nam Thông bắt đầu phai nhạt khi quá trình đô thị hóa nhanh chóng ở các thành phố lân cận Tô Châu và Thượng Hải đã thu hút người dân địa phương rời đi. Ngày nay, thành phố đang già đi nhanh chóng.
Nantong ngày nay là thành phố "già" nhất ở Trung Quốc, về mặt nhân khẩu học. Dựa trên Tổng điều tra dân số quốc gia năm 2020, những người từ 60 tuổi trở lên chiếm 30% trong tổng số 7,7 triệu dân của Nam Thông - gần gấp đôi mức trung bình toàn quốc là 18,7%.
Nantong đưa ra cái nhìn vào quá khứ nhưng cũng là một cái nhìn về tương lai Trung Quốc.
Tại Rudong, một quận ở Nantong, xu hướng này thậm chí còn gay gắt hơn, với 39% dân số trên 60 tuổi. "Những người trẻ tuổi không thích kiểu lao động chân tay này. Họ thích làm việc ở các thành phố lớn hơn", Wang Qiao nói trong khi dọn bàn tại một quán ăn ở Rudong. Wang và đồng nghiệp của bà đều đã ngoài 70 tuổi.
Đến năm 2035, ước tính có khoảng 400 triệu người ở Trung Quốc từ 60 tuổi trở lên, chiếm 30% dân số, theo dự đoán của chính phủ.
Vào tháng 1, Tổng Cục Thống kê Quốc gia Trung Quốc cho biết dân số Trung Quốc sẽ giảm giảm mạnh người xuống còn 1,412 tỷ người vào năm 2022.
Nhiều chuyên gia cho biết, đây là một hệ quả của chính sách một con, và ảnh hưởng đối với nền kinh tế Trung Quốc sẽ còn rất xa.
Các nhà lãnh đạo Trung Quốc đang ngày càng lo lắng về tỷ lệ sinh giảm. Tỷ lệ sinh của Trung Quốc giảm xuống dưới 1,1 vào năm 2022 trong khi tỷ lệ 2,1 là cần thiết để duy trì dân số.
Tình trạng giảm sinh hiện nay bắt nguồn từ chính sách một con được đưa ra vào năm 1980 và kết thúc vào năm 2016. Song song với cải cách kinh tế, chính sách một con nhằm hạn chế quy mô nhưng nâng cao "chất lượng" dân số Trung Quốc.
Năm 2016, chính sách một con được nới lỏng để cho phép sinh hai con. Sau khi cuộc điều tra dân số năm 2020 gióng lên hồi chuông cảnh báo, tỷ lệ này tiếp tục được nới lên 3 con. Dù vậy, hầu hết các cặp vợ chồng đều chọn sinh một con và tỷ lệ gia tăng dân số tự nhiên tiếp tục giảm. Các cặp vợ chồng cũng trì hoãn việc sinh con.
Bất ổn kinh tế là một yếu tố khác dẫn đến tỷ lệ sinh giảm: Ít người kết hôn hơn do chi phí sinh hoạt cao hơn.
Các nhà chức trách Trung Quốc đã đưa ra nhiều biện pháp "ngọt ngào", bao gồm phần thưởng bằng tiền mặt và tăng thời gian nghỉ có trả lương cho người kết hôn để thúc đẩy tỷ lệ sinh.
"Tiền thưởng thậm chí không đủ để mua sữa bột", một bà mẹ họ Yang ở Thâm Quyến cho biết. Yang có một cô con gái 4 tuổi và không có ý định sinh thêm con. "Có thể các biện pháp này có thể khuyến khích một số gia đình nhưng đối với những nơi có mức sống cao, họ sẽ không sinh con chỉ với số tiền ít ỏi như vậy", cô nói.
Các nhà nhân khẩu học cũng cho biết, tỷ lệ sinh ở Nhật Bản và Hàn Quốc không tăng bất chấp những ưu đãi tương tự.
Yun Zhou, một nhà nhân khẩu học Trung Quốc tại Đại học Michigan, cho biết việc tăng dân số, thông qua các cưỡng chế ngầm hoặc cưỡng chế rõ ràng không phải là cách nên làm. Thay vào đó, nên xem xét đến phúc lợi.
Trung Quốc có đi vào "thập kỷ mất mát" như Nhật Bản?
Với dân số giảm vào năm ngoái, Trung Quốc đã gia nhập câu lạc bộ các nền kinh tế lớn của châu Á có chung xu hướng. Nhật Bản và Hàn Quốc là những quốc gia có tốc độ già hóa dân số nhanh nhất thế giới, trong đó Hàn Quốc có tỷ lệ sinh thấp nhất thế giới.
Dựa trên tình hình ở các quốc gia châu Á gặp phải thách thức tương tự, sự suy giảm dân số của Trung Quốc sẽ tác động lên hệ thống kinh tế của nước này. Ví dụ, ở Nhật Bản, vấn đề này đã dẫn đến tình trạng thiếu lao động, tiêu dùng chậm lại, sản xuất đình trệ, thâm hụt ngân sách lớn hơn...
Theo Nikkei Asia, "thập kỷ mất mát" của Nhật Bản với tình trạng giảm phát bắt đầu sau khi bong bóng thị trường bất động sản vỡ vào năm 1991, một phần do sự bùng phát của dân số già.
Các chuyên gia chỉ ra độ trễ chỉ 15-20 năm giữa Nhật Bản và Trung Quốc về mặt nhân khẩu học: dân số trong độ tuổi lao động bắt đầu giảm vào năm 2015 ở Trung Quốc so với năm 1995 ở Nhật Bản; sự suy giảm dân số bắt đầu vào năm 2022 ở Trung Quốc so với năm 2008 ở Nhật Bản.
"Cấu trúc dân số của Trung Quốc [hiện nay] tương tự như của Nhật Bản vào khoảng năm 1990, khi Nhật Bản bước vào thời kỳ suy thoái dài hạn," Chi Hung Kwan, thành viên cao cấp tại Viện nghiên cứu thị trường Nomura, chỉ ra.
Trung Quốc phải đối mặt với những thách thức tương tự như Nhật Bản, với số người trong độ tuổi lao động ít hơn trong dài hạn và chi phí an sinh xã hội tăng mạnh.
Tuy nhiên, ở Nhật, tình trạng lão hóa xảy ra khi đất nước tương đối thịnh vượng. Lauren Johnston, phó giáo sư tại Trung tâm Nghiên cứu Trung Quốc tại Đại học Sydney, cho biết: "Nhật Bản già đi sau khi giàu có".
Nhưng Trung Quốc sẽ phải đối mặt với vấn đề dân số trong những hoàn cảnh kinh tế rất khác: Chưa phải là một quốc gia có thu nhập cao, dân số giảm có thể là lực cản đối với tăng trưởng kinh tế vì một lượng lớn người về hưu sẽ gây ra thiếu hụt lực lượng lao động.
Vấn đề đặt ra là nếu không có mạng lưới an sinh tốt như Nhật Bản, tình trạng nghèo đói của người già ngày càng gia tăng sẽ trở nên khó giải quyết.
Nhiều người về hưu lớn tuổi ở Trung Quốc dựa vào tiền trợ cấp hưu trí nhà nước như một nguồn thu nhập quan trọng sau nhiều năm làm việc với mức lương thấp.
Ông Gu, tỉnh Sơn Đông, nghỉ hưu ở tuổi 60 sau gần 4 thập kỷ đưa đón công nhân sản xuất đến một nhà máy địa phương, Ông đã hy vọng sẽ tiết kiệm đủ tiền từ khoản trợ cấp của mình để đưa các cháu của mình đi học và đảm bảo một cuộc sống suôn sẻ cho chúng.
Đối với Gu, số tiền chưa đến 3.000 nhân dân tệ (436 USD) mà ông nhận được hàng tháng từ lương hưu nhà nước chỉ đủ để chi tiêu sinh hoạt tại một quận nhỏ ở Sơn Đông. Số tiền còn lại khá ít ỏi.
"Lương hưu của tôi, vì vậy tôi vẫn muốn tìm được một việc làm thêm nếu có cơ hội", ông Gu nói.
Quá trình đô thị hóa và dòng người lao động nhập cư đổ về các thành phố lớn để tìm kiếm cơ hội việc làm cũng đồng nghĩa với việc các chính quyền nông thôn có ít người đóng tiền vào các chương trình hưu trí địa phương hơn.
Sự suy giảm dân số trong độ tuổi lao động có khả năng làm giảm tốc độ tăng trưởng của Trung Quốc khoảng 1 điểm phần trăm mỗi năm từ năm 2035 đến năm 2050, Tomoyuki Fukumoto, giáo sư tại Đại học Kinh tế và Đại học Osaka, dự đoán.
Trong nhiều năm, Trung Quốc đã tận dụng nguồn lao động giá rẻ để trở thành một cường quốc kinh tế và là công xưởng của thế giới. Điều này sẽ phải thay đổi.
Như đã xảy ra ở Nhật Bản, các nhà sản xuất có thể bắt đầu rời khỏi đất nước một cách từ từ, dẫn đến một vòng luẩn quẩn là nhu cầu trong nước giảm và đầu tư trong nước ít hơn. Đồng thời, sẽ có ít việc làm hơn và sự sụt giảm hơn nữa trong tiêu dùng cá nhân và đầu tư kinh doanh.
Thay đổi dân số sẽ định hình tình trạng kinh tế và tăng trưởng trong tương lai của Trung Quốc cũng như vai trò của Trung Quốc trong toàn bộ chuỗi cung ứng toàn cầu, Su Yue, Nhà kinh tế trưởng Trung Quốc tại Economist Intelligence Unit cho biết.
Các nhà sản xuất đã tìm kiếm những nơi bên ngoài Trung Quốc như Việt Nam, Bangladesh và Ấn Độ để có lao động rẻ hơn.
Trung Quốc sẽ phải chuyển từ sản xuất giá trị thấp và chuyển lên chuỗi giá trị hướng tới những người lao động có tay nghề cao hơn, đầu tư vào các lĩnh vực như khoa học và công nghệ có thể thúc đẩy các cơ hội tăng trưởng.