Cảnh báo các bà mẹ: Hóa chất có thể làm tăng nguy cơ con cái sinh ra bị dị tật bẩm sinh
Một nghiên cứu đã đề cập đến một loại hóa chất phổ biến trong thuốc trừ sâu hộ gia đình và ngành nông nghiệp có thể làm tăng nguy cơ dị tật bẩm sinh hiếm gặp ở trẻ sơ sinh.
Một nghiên cứu đã đề cập đến một loại hóa chất phổ biến trong thuốc trừ sâu hộ gia đình và ngành nông nghiệp có thể làm tăng nguy cơ dị tật bẩm sinh hiếm gặp ở trẻ sơ sinh. Trong một nghiên cứu trên cơ thể chuột, hoạt chất Piperonyl butoxide (PBO) được kết hợp với holoprosencephaly (HPE).
Các nhà khoa học cảnh báo rằng họ không thể chứng minh điều tương tự sẽ xảy ra ở người - nhưng họ kêu gọi các thử nghiệm thêm đối với hoạt chất PBO để tìm ra ảnh hưởng của nó. PBO được sử dụng rộng rãi trong thuốc trừ sâu cho cây trồng trong nhà, cũng như trong thuốc chống muỗi và dầu gội trị chấy.
Một số nghiên cứu đã được thực hiện đối với hóa chất này - nhưng nó được các hội đồng chính thức coi là an toàn bởi vì nó không có khả năng được hấp thụ bởi cơ thể con người.
Một nghiên cứu do giáo sư về sinh học so sánh của Đại học Wisconsin-Madison, Robert Lipinski chủ nhiệm đã được công bố trên tạp chí Góc nhìn sức khỏe môi trường. Các nhà nghiên cứu đã phát hiện ra rằng PBO can thiệp vào con đường được gọi là con nhím siêu âm.
Con đường rất quan trọng cho sự phát triển sớm và sự gián đoạn tín hiệu dẫn đến những bất thường nghiêm trọng về phát triển ở não, phổi và xương. Những con chuột cái được tiêm một liều PBO đã có con biểu hiện sự phát triển não bộ còi cọc và những bất thường trên khuôn mặt.
Giáo sư Lipinski nói: "Chúng tôi không biết liệu PBO có góp phần gây ra dị tật bẩm sinh trong dân số hay không. Nhưng nghiên cứu của chúng tôi cho thấy rằng việc kiểm tra nghiêm ngặt hơn về các ảnh hưởng tiềm tàng của PBO đối với sức khỏe con người được bảo đảm".
HPE được thể hiện trong một loạt các bất thường về phát triển, từ sứt môi và hàm ếch, đến những dị tật nghiêm trọng hơn.
Ở người, việc sinh ra với HPE trong cơ thể là rất hiếm, xảy ra ở khoảng 1/10.000 trẻ sơ sinh. Tuy nhiên, nó được cho là ảnh hưởng đến 1/250 phôi thai. Cũng có khả năng tình trạng này là một gen di truyền, với ít nhất 12 gen được biết là có liên kết với HPE. Các nghiên cứu hiện tại cho thấy đại đa số trẻ sơ sinh mắc HPE không sống sót sau sáu tháng đầu đời.
Theo Cơ quan Bảo vệ Môi trường (EPA), PBO lần đầu tiên được tổng hợp vào những năm 1940 và là thành phần của ít nhất 2.500 sản phẩm thuốc trừ sâu.
PBO được xác định vào năm 2012 là một chất ức chế con đường truyền tín hiệu của con nhím siêu âm, có ở động vật từ ruồi giấm đến chuột và người.PBO không được thiết kế để tự diệt côn trùng mà là để kéo dài thời hạn sử dụng của thuốc trừ sâu và giảm lượng thuốc trừ sâu thực tế trong sản phẩm.
Con đường truyền tín hiệu liên quan đến nhiều khía cạnh của sự phát triển phôi, bao gồm não và mặt.
Giáo sư Lipinski và các đồng nghiệp đã phát triển nghiên cứu dựa trên những phát hiện rằng PBO có thể ảnh hưởng đến sự phát triển sớm ở chuột.
Họ tiêm PBO vào chuột đang mang thai ở giai đoạn phát triển quan trọng, khi chuột cái mang thai 8 ngày. Liều dùng là 22-1.800 miligam mỗi kg. Liều lượng này là lớn hơn nhiều lần so với bất kỳ khả năng phới nhiễm nào của con người.
Tất cả chuột sơ sinh đều có khiếm khuyết trong cấu trúc ở não trước. Những con chuột con bị ảnh hưởng nghiêm trọng là những con bị tiêm liều cao nhất, sẽ được chẩn đoán là HPE.
Những con chuột con cũng bị chứng phổi giảm sản (khó khăn về hô hấp), hàm trên, xương gò má và hốc mắt không phát triển nhiều như phần còn lại của khuôn mặt, hay chứng suy giảm thần kinh khi cấu tạo hai mắt rất gần nhau.
Giáo sư Lipinksi nói: " Tất cả là vấn đề thời gian. Thời kỳ quan trọng là rất sớm trong quá trình phát triển của bào thai. Sự tiếp xúc của con người với PBO và những đóng góp tiềm tàng của nó đối với các khuyết tật bẩm sinh phức tạp về mặt căn nguyên cần được kiểm tra nghiêm ngặt".
Nhóm nghiên cứu cũng nghiên cứu con đường của con nhím siêu âm bị ức chế mạnh như thế nào trong tế bào của chuột và người trong phòng thí nghiệm.
Một nghiên cứu trước đây về bụi trong nhà chỉ ra PBO là chất gây ô nhiễm hóa học phổ biến 'top 10', cho thấy sự phong phú của nó trong môi trường.
Một nghiên cứu nữa năm 2002 đã tìm thấy PBO trong 75% mẫu không khí mà phụ nữ mang thai hít thở.
Giáo sư Lipinski nói: 'Người ta nói rằng dị tật bẩm sinh như holoprosencephaly là do nguyên nhân "một chút vì lí do này và một chút vì lí do khác"
Ảnh hưởng của PBO đối với sức khỏe con người là chủ đề của tương đối ít các nghiên cứu khoa học, chỉ có một số ít các nghiên cứu được công bố.
Hiện tại, nhãn của các sản phẩm có chứa PBO không cung cấp thông tin cảnh báo khi tiếp xúc đối với phụ nữ trong thai kỳ.
Một chuyên gia độc lập không tham gia vào nghiên cứu mới nhất cho biết những phát hiện chỉ ra rằng "mức độ liên quan đến con người và mức độ phơi nhiễm của con người đối với PBO có thể được coi là thấp"
Tiến sĩ Peter Jenkinson, giám đốc điều hành của Công ty tư vấn về đánh giá rủi ro độc tính đối với môi trường và con người (CEHTRA) đã ghi nhận những khoảng trống trong bài báo.
EU không có lo ngại nghiêm trọng về mức độ an toàn của PBO. Trong một nghiên cứu dùng đường uống ở chuột, phần lớn chất được thu hồi trong phân và phần còn lại trong nước tiểu. Trong một thử nghiệm lâm sàng ở người, sự hấp thụ qua da ít hơn 3% liều áp dụng ... và không có bằng chứng nào cho thấy việc tiếp xúc PBO ngoài da gây thẩm thấu vào trong".
HOLOPROSENCEPHALY (HPE) LÀ GÌ?
Holoprosencephaly là một sự bất thường của sự phát triển não bộ trong đó não không phân chia đúng cách thành bán cầu não phải và trái.
Tình trạng này cũng có thể làm suy yếu sự phát triển của đầu và mặt.
Có bốn loại holoprosencephaly, được phân biệt bởi mức độ nghiêm trọng khác nhau. Từ ít nghiêm trọng đến rất nghiêm trọng, các loại HPE là alobar, semi-lobar, lobar, và giữa các biến thể trung bình.
Nguyên nhân của HPE vẫn chưa được xác định cụ thể. được biết.
Người ta ước tính rằng HPE ảnh hưởng đến một trong 5.000-10.000 ca sinh sống sót. Vì nhiều trường hợp mang thai có bị sảy thai sớm do HPE ảnh hưởng tới thai nhi, tỉ lệ có thể lên đến một trong 200-250 ca.
Với tiên lượng xấu biết trước, phụ nữ mang thai được lựa chọn tiếp tục mang thai với sự hỗ trợ của đội ngũ bác sĩ hoặc chấm dứt thai kỳ. Một số phụ nữ chọn chấm dứt thai kỳ.
Đối với những người chọn tiếp tục, việc điều trị dựa trên quản lý tình trạng của em bé và hỗ trợ cha mẹ.
Các nghiên cứu hiện tại chỉ ra rằng chỉ có 3% trên tổng số các thai nhi mắc HPE sống sót sau khi sinh và phần lớn những trẻ này không sống sót sau sáu tháng đầu đời.
Nguồn: NHS và Trung tâm quốc gia về tiến bộ khoa học xuyên quốc gia
PIPERONYL BUTOXIDE LÀ GÌ?
Piperonyl butoxide (PBO) là một trong những chất hỗ trợ được sử dụng phổ biến nhất trong các sản phẩm thuốc trừ sâu.
Chất hỗ trợ là hóa chất được thêm vào công thức thuốc trừ sâu để tăng cường độc tính của các thành phần hoạt động.
Nó có thể được sử dụng trong thuốc xịt muỗi, thuốc diệt chấy, thuốc trừ sâu trên vật nuôi và thuốc trừ sâu cho quần áo hoặc giường ngủ của con người.
Theo khảo sát của Cơ quan Bảo vệ Môi trường (EPA), PBO là một trong những thành phần được sử dụng phổ biến nhất trong thuốc trừ sâu.
Nó hiện được tìm thấy trong khoảng 1.600 đến 1.700 sản phẩm kiểm soát dịch hại đã đăng ký lưu hành trên thị trường.
Nhưng EPA thông báo rằng rủi ro thực phẩm ăn kiêng như dư lượng thuốc bảo vệ thực vật trên trái cây và rau quả - là rất thấp. Cơ thể dường như không hấp thụ nhiều PBO.
Phơi nhiễm ngắn hạn do tiêu hoá PBO với liều lượng lớn có thể gây ra các triệu chứng buồn nôn, chuột rút, nôn mửa và tiêu chảy.
Tiếp xúc lâu dài với PBO trong các nghiên cứu trên động vật đã cho thấy sự gia tăng trọng lượng gan và tuyến giáp, tổn thương gan, thận và giảm cân.
Dựa trên một số nghiên cứu, EPA đã phân loại PBO là chất gây ung thư ở người.
Tuy nhiên, Cơ quan Nghiên cứu Ung thư Nội bộ (IARC) đã đánh giá PBO và báo cáo rằng "không thể phân loại được tính gây ung thư của PBO đối với con người".
*Theo Daily Mail
Link bài gốc: https://soha.vn/canh-bao-cac-ba-me-hoa-chat-co-the-lam-tang-nguy-co-con-cai-sinh-ra-bi-di-tat-bam-sinh-20191120124742002.htm