Dùng thuốc gì khi thiếu máu?

,
Chia sẻ

Thiếu máu là một tình trạng bệnh lý có giảm sút số lượng huyết sắc tố trong máu, đây là một thành phần quan trọng của tế bào hồng cầu, vận chuyển ôxy từ phổi đến các tế bào.

Thiếu máu có thể gây ra do nhiều nguyên nhân nhưng thiếu máu do thiếu sắt là dạng thiếu máu hay gặp nhất. Trong cơ thể người, tủy xương sử dụng sắt để sản xuất ra huyết sắc tố. Khi thiếu sắt, quá trình sản xuất này sẽ bị chậm trễ và thiếu hụt.

Trong cơ thể mỗi người trưởng thành có chứa trung bình 3-5g sắt, 2/3 số này chứa trong các phân tử huyết sắc tố. Nhu cầu sử dụng sắt mỗi ngày đối với một người nam giới trưởng thành là 1mg, với phụ nữ trong tuổi sinh đẻ hoặc trẻ vị thành niên là 2-3mg.
 

Những thực phẩm chứa nhiều sắt là gan lợn, thịt nạc, thịt gia cầm, các loại đậu đỗ...
 
Các bệnh lý gây mất máu kéo dài như trĩ, polyp đại tràng, rong kinh, nhiễm giun móc... là nguyên nhân thường gặp nhất gây thiếu sắt. Ít gặp hơn, thiếu sắt có thể gây ra do chế độ ăn cung cấp không đủ sắt hoặc giảm hấp thu sắt do các bệnh lý ở dạ dày và ruột. Ở phụ nữ có thai hoặc cho con bú, tình trạng thiếu sắt có thể xảy ra do tăng nhu cầu sử dụng sắt.

Dưới kính hiển vi, các hồng cầu bị thiếu sắt rất dễ nhận biết vì chúng nhỏ hơn và bắt màu nhạt hơn bình thường. Người bệnh có thể nhận biết được các triệu chứng bên ngoài của thiếu máu thiếu sắt như da xanh, môi và lợi nhợt nhạt, móng tay khô dễ gãy, mệt mỏi, đau đầu, khó thở, hoa mắt chóng mặt, trống ngực đập mạnh, giảm khả năng lao động...

Điều trị thiếu máu thiếu sắt quan trọng nhất là phải xác định và giải quyết được nguyên nhân gây thiếu sắt bên cạnh việc tăng cường bổ sung sắt qua chế độ ăn hoặc các chế phẩm sắt.

Những thực phẩm chứa nhiều sắt là gan lợn, thịt nạc, thịt gia cầm, các loại đậu đỗ, bánh mỳ, ngũ cốc và các loại hoa quả khô. Vitamin C giúp tăng khả năng hấp thu sắt, do đó bệnh nhân thiếu máu thiếu sắt nên ăn các loại hoa quả có vị chua sau bữa ăn chính. Trà làm giảm hấp thu sắt và nên tránh.

Khi cần sử dụng các chế phẩm sắt để bổ sung sắt cho cơ thể bằng đường uống, các muối sắt hoá trị 2 nên được sử dụng vì hấp thu tốt hơn các muối sắt hoá trị 3. Liệu pháp thường được sử dụng là sắt 2 sulphate 200mg uống 3 lần mỗi ngày (cung cấp 65mg x 3 = 195mg sắt). Các chế phẩm khác có thể được sử dụng là sắt 2 gluconate và sắt 2 fumarate. Tuy nhiên, cả 3 chế phẩm sắt này đều hay gây ra các tác dụng không mong muốn như  táo bón, buồn nôn và tiêu chảy. Để giảm bớt những biểu hiện này, thuốc nên được uống sau bữa ăn.

Nếu việc điều trị bổ sung sắt có hiệu quả, nồng độ huyết sắc tố sẽ tăng trung bình 1g/l mỗi ngày. Khi nồng độ huyết sắc tố đã đạt đến giá trị bình thường, việc bổ sung sắt nên được tiếp tục trong 3 tháng sau đó để đảm bảo đủ dự trữ sắt cho cơ thể. Những lý do cơ bản dẫn đến điều trị thất bại bao gồm việc bệnh nhân không tuân thủ điều trị một cách chặt chẽ, nguyên nhân gây mất máu kéo dài không được giải quyết triệt để hoặc khi bệnh nhân có các bệnh lý ác tính hoặc bệnh lý viêm tiềm tàng.

Các chế phẩm sắt đường tiêm truyền (tiêm tĩnh mạch hoặc tiêm bắp) cần được sử dụng khi bệnh nhân gặp phải những tác dụng phụ nặng nề sau uống viên sắt hoặc khi số lượng sắt mất hàng ngày vượt quá khả năng hấp thu sắt của đường tiêu hoá. Ống tiêm chứa phức hợp sắt, sorbitol và vitamin C thường được sử dụng với liều 10-20 ống tiêm bắp sau trong thời gian 2-3 tuần tuỳ theo mức độ thiếu máu và trọng lượng của người bệnh. Những tác dụng phụ hay gặp là gây đau khớp và biến màu da tại nơi tiêm.

Để dự phòng thiếu máu thiếu sắt, cần bổ sung đầy đủ sắt cho những phụ nữ đang có thai và cho con bú hoặc ở những bệnh nhân sau mổ cắt dạ dày. Trẻ em trong 12 tháng đầu nên được khuyến khích nuôi bằng sữa mẹ hoặc sữa bột, không nên ăn sữa bò vì không cung cấp đủ sắt.

 
Theo BS. Nguyễn Khánh
SKDS
Chia sẻ