Dinh dưỡng cho bà mẹ mang thai

,
Chia sẻ

Để phần nào giảm bớt sự lo âu cho họ BS Nguyễn Thị Hoa - Khoa Dinh dưỡng BV Nhi đồng 1 cho biết một số nguyên tắc cơ bản về dinh dưỡngkhi mang thai.

Người ta thường chia sự phát triển của thai kỳ theo quý (tức 3 tháng một), như 3 tháng đầu, 3 tháng giữa và 3 tháng cuối, vì nó có liên quan đến vấn đề sức khoẻ của cả mẹ và con đồng thời đặc biệt có liên quan tới sự ăn uống của mẹ. Trong 3 tháng đầu là phôi thai được hình thành, chủ yếu là sự phân chia các tế bào, để hình thành cơ quan, và ít phát triển về cân nặng. Lúc này người mẹ bị nghén nhiều nhất vì có sự thay đổi về nội tiết cơ thể nên ăn ít và tăng cân rất ít (khoảng1kg), thậm chí không tăng hay sụt cân. Ba tháng giữa là lúc thai bắt đầu phát triển và ổn định, mẹ hết “nghén”, ăn được nhiều hơn và bắt đầu tăng cân (khoản 4 – 5 kg). Ba tháng cuối là lúc thai tăng trọng rất nhanh và mẹ chuẩn bị cho sự sanh nở và nuôi con bằng sữa mẹ nên tăng cân nhiều (khoảng 5 – 6 kg).

Cân nặng của mẹ tăng trọng cả thai kỳ là khoảng 10 - 12 kg gồm thai (2,5 - 3 kg), rau thai (0,4 kg), dạ con (1,1 kg), tuyến vú (1,2 kg), nước ối (0,8 kg) và cả phần mỡ dự trữ (2 - 4 kg) của mẹ để chuẩn bị nuôi con bằng sữa của mình. Nếu tăng < 10 kg thì con có nguy cơ suy dinh dưỡng và khó có sữa nuôi con.

Để chuẩn bị cho “mẹ tròn con vuông” thì bà mẹ cần phải ăn như thế nào?

Để đảm bảo cho người mẹ tăng đủ 10 – 12 kg, thì người mẹ cần ăn ăn nhiều hơn bình thường về tất cả các chất dinh dưỡng . Ví dụ; mỗi ngày năng lượng cần ăn nhiều hơn 350 kcal, protein (đạm) (15g), vitamin A (600mg), B1 (0,2 mg), B2(0,2 mg), PP (2,3mg), C (10 mg), muối khoáng (Canxi : 1000 mg, Sắt: 30 mg).

Như vậy, người mẹ cần ăn đủ các loại thực phẩm , không nên ăn thiên lệch về một loại thức ăn nào, theo khuyến cáo của Viện dinh dưỡng Quốc gia là ít nhất 1 ngày ăn được 35 loại thực phẩm khác nhau (1 tô phở có 10 loại thực phẩm: bánh phở, thịt, mỡ, rau thơm, giá, rau ngổ (ôm), mùi tàu, tương, mắm…). Cụ thể người mẹ nên ăn mỗi bữa thêm 1 chén hoặc mỗi ngày thêm 1 bữa (mỗi bữa nên ăn đủ cả 4 nhóm thực phẩm là bột, đạm, mỡ, rau). Thức ăn là đa dạng, nhưng nên ưu tiên các loại thực phẩm có giá trị dinh dưỡng cao như đạm động vật như thịt, cá, trứng, sữa, hải sản, và những đạm thực vật quý như đậu đỗ… vì những loại thực phẩm này ngoài cung cấp chất đạm còn cung cấp chất vi lượng như vitamin A, D, E, K, C, B, Sắt, Đồng, Kẽm…) và muối khoáng (canxi) giúp cho sự phát triển của thai nhi.

Một số quan niệm sai lầm về dinh dưỡng khi mang thai mà thiết nghĩ ta cũng nên đề cập tới để các bà mẹ biết và tránh: Một số quan niệm rằng nếu ăn nhiều thì con to, khó sanh. Thực ra, như lúc đầu ta thấy cân nặng của mẹ tăng trong thời kì đâu phải chỉ tăng cho mình bào thai mà còn các yếu tố phần phụ khác nữa. Trọng lượng thai ít khi vượt quá khả năng sanh của mẹ trừ khi mẹ bị bệnh tiểu đường. Hơn nữa, sự sanh khó hay dễ phụ thuộc vào kích thước khung chậu người mẹ nhiều hơn. Chúng ta cũng đã thấy nhiều bà mẹ con nhỏ mà vẫn phải mổ bắt con trong khi có người mẹ vẫn sanh bình thường khi con to. Ta cần hiểu rằng mang thai là đã nuôi dưỡng một con người mới nên nhất thiết phải ăn nhiều hơn bình thường.

Một số bà mẹ lại kiêng hẳn một loại thức ăn nào đấy mà mình bị ói khi ăn lần đầu lúc mang thai, như vậy có nguy cơ thiếu một loại chất dinh dưỡng nào đó. Có thể bà mẹ bị ói do nhiều nguyên nhân khác nhau (thức ăn không tươi, hoặc “nghén” nhất thời) chứ không hoàn toàn là do không chịu thức ăn đó. Ta có thể tập lại như ăn ít một xem sao. Nếu ăn được ta sẽ ăn tiếp lần sau, nếu không thì ta cầnlời khuyên của bác sĩ dinh dưỡng để tìm thức ăn thay thế.

Một số bà mẹ lại nhịn ăn do “nghén” nhiều (sợ ăn sẽ bị ói). Thực ra thì dù có ói sau khi ăn đi nữa thì cũng không ói tất cả những thức ăn đã ăn vào, do đó ta vẫn nên ăn để thai không bị thiếu chất dinh dưỡng. Bà mẹ nên ăn ít một và ănnhiều lần trong ngày.

Một số bà mẹ lạm dụng thuốc bổ khi mang thai, cho rằng thuốc có thể thay thế thức ăn. Ta cần biết thức ăn không cung cấp năng lượng, chỉ cho vitamin và muối khoáng. Đặc biệt, vai trò của một số vitamin trong sự phân chia tế bào (trong 3 tháng đầu) chưa rõ. Nhưng một số đã được chứng minh là vitamin A liều cao có thể gây dị dạng thai. Như vậy, trong 3 tháng đầu tuyệt đối không được dùng thuốc khi không có chỉ định của bác sĩ.

Qua những nhu cầu và một số vấn đề bà mẹ hay gặp trên, các nhà dinh dưỡng khuyến cáo chế độ ăn cho các bà mẹ như sau:

- Ăn đầy đủ 4 nhóm thức ăn, không cữ một loại thức ăn nào. Đ?ïc biệt chú ý đến sữa, thịt, cá, tôm, cua, trứng và các loại đậu đỗ. Một ngày ít nhất là 300 ml sữa, nếu không uống sữa được thì nên ăn yaout hay tôm cả vỏ và cua đồng để bổ xung can xi cho trẻ.

- Nếu ói thì chia nhỏ bữa ăn: ngày ăn 6-7 cữ, ăn những thức ăn có mùi vị mà mình ưu thích (không có màu hoá học).

- Trong 6 tháng cuối phải ăn nhiều hơn, ít nhất là nhiều hơn từ 10-30% lượng thức ăn trong 3 tháng đầu. Tức là 3 tháng đầu ăn 1 bữa 2 chén, thì 6 tháng cuối ăn 1 bữa 3 chén.

- Bình thường thì người mẹ tăng trên 10 kg, nhưng nếu mẹ bị béo phì thì chỉ cần tăng 6 kg và nếu song thai (thai đôi) thì phải tăng 16-20 kg.

- Không tự động uống thuốc bổ khi không có chỉ định của bác sĩ.

- Cần đến khám bác sĩ khi có các biểu hiện sau: Tăng cân quá ít (dưới 1 kg/ tháng đối với người bình thường và dưới 0,5 kg/ tháng đối với người béo phì) hoặc sụt cân (trên 0.5 kg/ tháng); tăng cân quá nhiều (trên 3 kg/ tháng) hoặc bị mệt mỏi xanh xao, loá mắt, chóng mặt, chuột rút hoặc bị dị ứng thức ăn hay bà mẹ ăn chay cũng như mẹ bị béo phì, tiểu đường, bướu cổ , suy dinh dưỡng.

Một chế độ dinh dưỡng đầy đủ và một tinh thần thoải mái chắc chắn các bà mẹ sẽ có một đứa con khoẻ mạnh và thông minh.
 
Theo Vnmedia
Chia sẻ