Bảo vệ con khi đi bơi

,
Chia sẻ

Trên biển, bể bơi hay bồn tắm tại nhà, bạn nên giữ trẻ ở mực nước có độ sâu bằng chiều dài cánh tay. Cả khi trẻ bơi thành thục, bạn vẫn phải giữ con trong tầm kiểm soát.

Nếu con mình mệt mỏi hay mất phương hướng khi bơi, bạn nên cho trẻ lên ngay vì tai nạn có thể xảy ra nếu trẻ mệt hay lúng túng, hoặc quá lạnh vì ngâm nước.

Khi xuống biển, bạn nên bắt trẻ mang theo phao hoặc mặc áo bơi để đảm bảo an toàn. Tuy nhiên, những vật dụng ấy không thể thay thế việc giám sát của người lớn.

Cho con mang giày bơi khi ngụp lặn để tránh những mỏm đá sắc hay các vật nguy hiểm khác. Không cho trẻ bơi ở những khu vực cấm.
 
Trong công viên nước, hồ bơi, bạn cần xem kỹ khu vực nào thích hợp với lứa tuổi và "trình độ" bơi lặn của trẻ.

Cuối cùng, bạn cần lên kế hoạch những việc cần làm trong trường hợp khẩn cấp như luôn mang điện thoại khi muốn gọi trợ giúp, học cách sơ cứu…

Lưu ý: Trẻ có thể chết đuối trong chậu nước

Bé có thể gặp tai nạn này ngay trong nhà khi ngã úp mặt vào chậu nước, gây ra ngạt nước.

Phần lớn, trẻ bị ngạt nước (72%) được phát hiện muộn và sơ cứu không đúng phương pháp nên dẫn đến tỉ lệ tử vong và tàn phế do di chứng não rất cao (27%).
 
65% các trường hợp ngạt nước trẻ em xảy ra ở trẻ dưới 3 tuổi .Trẻ mới chập chững biết đi có thể ngã chúi đầu vào thùng, xô, lu, chậu chứa nước… Do đó, cần đậy kín các vật chứa nước khi không sử dụng.

Trẻ trong độ tuổi đi học, ngạt nước thường xảy ra ở ao, sông, hồ, biển, mương, suối, hào, đầm… Do trẻ không biết bơi lại chơi gần nơi có nước, rủi ro té ngã xuống nước; hoặc biết bơi nhưng bị hụt hơi, đuối sức, chuột rút…

Chìm lâu trong nước sẽ gây tổn thương não do thiếu ôxy:
 
- Giai đoạn đầu: Diễn ra trong 4 phút đầu tiên. Trẻ bị chìm trong nước làm hư hại lớp màng trong của phế nang, làm phổi không thể trao đổi khí, dẫn đến tình trạng thiếu ôxy máu. Trong giai đoạn này trẻ bị ngưng thở, nhưng có thể hồi phục hoàn toàn nếu được vớt lên và hồi sức kịp thời.

- Giai đoạn tiếp theo: Tình trạng thiếu ôxy máu tiếp tục kéo dài sẽ ảnh hưởng đến tất cả các cơ quan trong cơ thể, đặc biệt là não và tim. Thiếu ôxy ở não gây phù não làm mất tri giác, hôn mê, kéo dài sẽ làm tăng áp lực nội sọ, ức chế vùng hành tủy gây ngừng thở. Những thay đổi tim mạch do ngạt nước được ghi nhận gồm: tăng nhịp tim, sau đó nhịp tim chậm đi, co bóp tim không hiệu quả đến loạn nhịp tim, đột ngột suy tuần hoàn và ngừng tim.

Cần làm gì khi trẻ ngạt nước?

Nhanh chóng vớt trẻ lên, cung cấp dưỡng khí ngay bằng động tác thổi ngạt (hô hấp nhân tạo): Hít thật sâu. Áp miệng thật sát vào mũi và miệng trẻ với trẻ nhỏ hoặc thổi miệng qua miệng cho trẻ lớn. Thực hiện liên tiếp 2 lần,  xem lồng ngực trẻ có di động không, sau đó thổi theo nhịp 4 giây/lần.

Nếu trẻ có ngưng tim, thực hiện ấn tim trên mấu xương ức 1 khoát ngón tay (đối với trẻ nhỏ), 2 khoát ngón tay đối với trẻ trên 8 tuổi. Tần số ấn tim là 100 lần /phút. Ấn tim đúng khi sờ được mạch ở nhịp ấn vào.

Ấn tim và thổi ngạt theo nhịp 5/1 cho trẻ nhỏ (5 nhịp xen kẽ với 1 nhịp thổi ngạt). Ấn tim và thổi ngạt theo nhịp 15/2 cho trẻ trên 8 tuổi (15 nhịp xen kẽ với 2 nhịp thổi ngạt)

Sơ cứu đến khi có mạch thì ngưng ấn tim, nhưng vẫn tiếp tục thổi ngạt cho đến khi trẻ tự thở. Sơ cứu tại chỗ được xem là thành công khi da trẻ hồng hào, tự thở được, tim đập lại, sờ được mạch rõ, trẻ tỉnh táo.

Sau sơ cứu, cần đưa trẻ đến cơ sở y tế gần nhất. Trẻ ngạt nước có thể tử vong trên đường chuyển viện, hoặc nhập viện trong tình trạng rất nặng do thiếu dưỡng khí. Vì vậy, vẫn phải tiếp tục thực hiện các động tác sơ cứu trong lúc di chuyển trẻ đến cơ sở y tế.

Những sai lầm cần tránh

Xốc nước bằng cách cõng ngược trẻ trên lưng và chạy xa hàng trăm thước. Động tác sơ cứu này không cung cấp được dưỡng khí và sẽ làm kéo dài thời gian thiếu ôxy não ở trẻ.

Xốc nước bằng cách đặt trẻ nằm trên chiếc lu, lăn qua lăn lại và đốt rơm trong lu. Biện pháp này vừa kéo dài thời gian thiếu ôxy não ở trẻ và còn có thể làm trẻ bị bỏng ở bụng và chân tay.

Theo Sức Khỏe & Đời Sống
Giadinh.net
Chia sẻ