Thuốc đông y độc chẳng kém tây y
Hiện nay trong nhân dân có quan niệm phổ biến cho rằng thuốc đông y (bao gồm thuốc bắc và thuốc y học cổ truyền) không độc hoặc ít độc hơn thuốc tây y. Từ quan niệm này, nhiều người đi đến chỗ lạm dụng vì tin “không bổ bề ngang cũng bổ bề dọc”!
Cây độc tưởng sâm bổ
Ngày 4/11/2011, bệnh viện Nhi trung ương cho biết có 4 trẻ dưới một tuổi bị ngộ độc nặng suýt nguy đến tính mạng, do cha mẹ dùng thuốc bôi ngoài da gọi là “thuốc cam” bôi chữa các nốt viêm nhiệt ở miệng của trẻ. Thuốc cam được xem là một loại thuốc đông y, nhưng xét nghiệm cho thấy chứa hàm lượng chì đến 10%!
Về thực vật có độc tính, có thể kể:
- Á phiện là nhựa lấy từ trái của cây thuốc phiện (Papaver somniferum L., họ Papaveraceae) dùng để chữa ho, giảm đau, chữa đau bụng, tả lỵ. Dùng quá liều rất nguy hiểm do ức chế trung tâm hô hấp ở hành tuỷ. Cần chú ý, trước đây một số thuốc y học cổ truyền (như lục thần thuỷ) hoặc thuốc tây y (như élixir parégorique) trị tiêu chảy có chứa vị thuốc này.
- Phụ tử là vị thuốc lấy từ rễ củ của cây ô đầu Việt Nam (Aconitum fortunei Hemsl., họ Ranuculaceae) hay của nhiều loại Aconitum khác, trong đông y được dùng làm thuốc hồi dương, khử phong hàn, chữa một số bệnh truỵ tim mạch, ra nhiều mồ hôi, tay chân lạnh. Trong vị thuốc này có chứa aconitin là một chất cực độc: chỉ cần 2 – 3mg aconitin có thể gây chết người. Một số thuốc đông y như trấn kinh hoàn, bát vị hoàn có chứa vị thuốc này.
– Mã tiền là vị thuốc bào chế từ hạt cây mã tiền (Strychnos nux vomica L., họ Loganiaceae). Mã tiền sử dụng trong đông y cũng giống như strychnin trong tây y. Đó là vị thuốc kích thích tiêu hoá, chữa nhức mỏi tay chân, chữa đau dây thần kinh và thiếu máu. Độc tính của mã tiền là do chất strychnin. Nếu dùng quá liều sẽ gây co giật kiểu uốn ván và nạn nhân chết vì ngạt thở.
– Cà độc dược (Datura metel L., họ Solanaceae). Dùng cà độc dược trong đông y giống như dùng atropin, hyoscin, scopolamin trong tây y. Được dùng chữa hen suyễn, giảm đau chống co thắt trong bệnh loét dạ dày và ruột, chữa chóng mặt, nôn mửa khi đi máy bay, tàu xe. Có thể gây ngộ độc nếu dùng quá liều do chất atropin làm tê liệt hệ đối giao cảm: giãn đồng tử, mạch nhanh, giảm tiết dịch, tê liệt. Nạn nhân chết do hôn mê.
Riêng về cây thương lục, ở Việt Nam có ba loại, đơn cử một loài có tên khoa học Phytrolacca esculenta, họ Phytolaccaceae. Dược thảo này không được dùng làm thuốc bổ mà được phối hợp với các thuốc khác chữa cổ trướng, bệnh thận. Đặc biệt, rễ thương lục có chất độc là các phytolaccatoxin. Dùng ở người lâu dài và quá liều có thể bị ngộ độc; ngộ độc nhẹ: thân nhiệt tăng, tim đập nhanh, đau bụng, nôn mửa; liều lớn gây ngộ độc nặng: liệt thần kinh, hôn mê, hạ huyết áp, tim ngừng đập gây tử vong (theo Cây thuốc và động vật làm thuốc ở Việt Nam, tập hai, NXB Khoa học & kỹ thuật, Hà Nội, 2003).
Cuối cùng, cần phải đặc biệt ghi nhận là các loại dược liệu, dược thảo trong quá trình chế biến bảo quản dùng làm thuốc có thể chứa các độc chất nguy hiểm, như thuốc cam chứa chì đã đề cập.
Tóm lại, thuốc đông y cũng có những độc chất như trong thuốc tây; vì vậy, phải thật cẩn trọng khi sử dụng, không nên nghe lời truyền miệng, đồn đại về một toa thuốc, vị thuốc nào đó rồi tự tiện sử dụng lâu dài. Cũng đừng quá tin vào cái nhãn hiệu “gia truyền” mà giao phó sức khoẻ cho những người không được đào tạo chuyên môn hay hành nghề không theo sự quản lý của ngành y tế.